Tôi biết giá trị của thành công: cống hiến, làm việc chăm chỉ, và sự hy sinh không cần bù đắp cho những việc bạn muốn nó xảy ra.

Frank Lloyd Wright

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 39
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5957 / 112
Cập nhật: 2015-09-11 13:05:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11
teve.
Sau khi mua những vật liệu ông cần, chủ yếu là những thanh gỗ 2x4 inch và những tấm gỗ ghép. Steve và Jonah đã mất cả buổi sáng để ngăn lại hốc thụt của ngôi nhà. Nó chẳng đẹp đẽ gì - cha ông hẳn sẽ bị mất thể diện - nhưng Steve nghĩ nó phải được tiến hành. Ông biết căn nhà cuối cùng sẽ bị tháo dỡ; dù sao thì mảnh đất sẽ đáng giá hơn khi không có nó. Căn nhà gỗ nằm bên sườn những tòa biệt thự nhỏ ba tầng, và Steve chắc chắn những người hàng xóm đó quan tâm đến nơi có một vật chướng mắt làm giảm sút gía trị bất động sản của riêng họ.
Steve đóng búa vào một cái đinh, treo những bức hình của Ronnie và Jonah mà ông đã chuyển ra khỏi hốc thụt, và lùi lại một bước để ngắm nghía công trình của mình.
"Con nghĩ sao?" Ông hỏi Jonah.
Jonah nhăn mũi. "Nó trông giống như chúng ta dựng một bức tường bằng gỗ ghép xấu xí và treo những bức hình lên đó. Và cha sẽ không thể chơi piano được nữa."
"Cha biết."
Jonah nghiêng đầu từ bên này sang bên kia. "Con nghĩ nó cũng bị cong nữa. Nó phần nào khom xuống từ trong ra ngoài."
"Cha không thấy gì hết."
"Cha cần một cặp mắt kiếng, Cha à. Và con vẫn không hiểu tại sao cha muốn làm thế."
"Ronnie nói không muốn nhìn thấy cây đàn piano nữa."
"Thì sao?"
"Không có chỗ nào để dấu cây đàn, vì vậy cha dựng một bức tường che nó đi thay vì thế. Bây giờ con bé sẽ không phải nhìn thấy nó nữa."
"Oh" Jonh nói, trầm ngâm. "Cha biết không, con thật sự không thích phải làm bài tập về nhà. Thật vậy, con thậm chí không muốn nhìn thấy nó chồng đống trên bàn của con."
"Đang là mùa hè mà. Con không có bất kỳ bài tập nào."
"Con chỉ đang nói rằng có lẽ con nên dựng một bức tường vòng quanh cái bàn trong phòng của con."
Steve nín cười. "Con nên nói chuyện với mẹ con về điều đó."
"Hoặc cha có thể sẽ nói."
Steve cười lặng lẽ. "Con thấy đói chưa?"
"Cha nói chúng ta sẽ chơi thả diều."
"Chúng ta sẽ. Cha chỉ muốn biết con có muốn ăn trưa hay không thôi."
"Con nghĩ con thích có một ít kem hơn."
"Cha không nghĩ thế."
"Vậy bánh cookie nhé?" Giọng Jonah nghe đầy hy vọng
"Bánh sandwich với bơ đậu phộng và thạch trái cây thì thế nào?"
"Được ạ. Nhưng sau đó chúng ta sẽ chơi thả diều, đúng không?"
"Phải."
"Cả buổi chiều?"
"Miễn là con muốn."
"Được. Con sẽ ăn sandwich. Nhưng cha cũng phải ăn. "
Steve cười, choàng tay qua vai Jonah. "Thỏa thuận." Họ tiến vào bếp.
"Cha biết không, phòng sinh hoạt chung lúc này nhỏ đi nhiều." Jonah nhận xét.
"Cha biết."
"Và bức tường bị cong."
"Cha biết."
"Và nó không tương xứng với những bức tường khác."
"Ý con là gì?"
Gương mặt Joanh trở nên nghiêm trang. "Con chỉ muốn chắc chắn là cha không bị điên."
Thời tiết tuyệt hảo để thả diều. Steve ngồi trên một đụn cát cách nhà ông hai căn, quan sát con diều uốn lượn trên bầu trời. Jonah, đầy năng lượng như thường lệ, chạy qua chạy lại trên bãi biển. Steve quan sát cậu bé với niềm tự hào, sửng sốt nhớ lại rằng khi ông làm những điều tương tự trong thời ấu thơ, cả cha lẫn mẹ đều chưa bao giờ làm cùng ông.
Họ không phải người xấu. Ông biết điều đó. Họ chưa bao giờ ngược đãi ông, ông chưa bao giờ phải đói, họ không bao giờ tranh cãi khi có sự hiện diện của ông. Ông được chăm sóc nha khoa và bác sĩ một đến hai lần một năm, luôn có dư thừa thức ăn, và ông luôn có áo khoác vào những sáng mùa đông lạnh lẽo, và một đồng năm xu trong túi để ông có thể mua sữa ở trường. Nhưng nếu cha ông là người khắc kỷ, mẹ ông trái ngược hoàn toàn, và ông được cho là lý do để họ duy trì hôn nhân lâu như họ có. Bà gốc Romania; cha ông đã gặp bà trong lúc đóng quân tại Đức, bà nói đôi chút tiếng Anh khi họ kết hôn và không bao giờ chất vấn về văn hóa đã nuôi dưỡng bà. Bà nấu ăn, dọn dẹp và giặt quần áo; vào buổi chiều, bà làm việc bán thời gian như một cô thợ may. Vào lúc cuối đời bà đã học được kha khá tiếng Anh, đủ để tìm đường đến ngân hàng và tiệm tạp hóa, nhưng thậm chí vào lúc ấy, trọng âm của bà vẫn đủ nặng đến mức thỉnh thoảng gây khó khăn cho những người khác để hiểu được bà.
Bà cũng là một con chiên Công giáo mộ đạo, điều được coi là khá kỳ quặc tại Wilmington vào lúc đó. Bà đi lễ nhà thờ mỗi ngày và lần chuỗi cầu kinh vào mỗi tối, và dù Steve hiểu rõ truyền thống và nghi lễ misa vào những ngày Chủ nhật, vị linh mục luôn gây ấn tượng cho ông như là một người lạnh lùng và kiêu căng, thích thú với những luật lệ của nhà thờ nhiều hơn là những gì tốt nhất cho giáo dân. Đôi khi - thật ra khá nhiều lần - Steve tự hỏi cuộc đời của ông sẽ ra sao nếu ông không nghe thấy tiếng nhạc từ nhà nguyện First Baptist khi ông lên tám.
Bốn mươi năm đã trôi qua, các chi tiết đã phai nhạt đi. Ông lờ mờ nhớ lại, vào một buổi chiều đang đi vơ vẩn và nghe thấy Mục sư Harris chơi piano. Ông biết vị Mục sư đã khiến ông cảm thấy được chào đón, vì ông đã trở lại lần nữa, và cuối cùng mục sư Harris đã trở thành thày giáo piano đầu tiên của ông. Theo thời gian, ông bắt đầu tham dự - và sau đó trốn học - nghiên cứu Kinh thánh mà nhà thờ đề nghị. Trong nhiều cách, nguyện đường Baptist trở thành ngôi nhà thứ hai của ông và mục sư Harris trở thành người cha thứ hai của ông.
Ông nhớ mẹ ông đã không vui về điều đó. Mỗi khi cảm thấy khó chịu, bà lẩm bẩm bằng tiếng Romanian, và trong nhiều năm, mỗi khi ông từ nhà nguyện trở về, ông sẽ nghe những từ ngữ và những câu nói không thể hiểu được trong khi bà làm dấu thánh và ép ông mang khăn scapular (dải khăn choàng vai của thầy tu đạo Thiên Chúa) Trong suy nghĩ của bà, việc có một mục sư đạo Tin Lành dạy piano cho ông hơi giống việc chơi nhảy lò cò với quỷ sứ.
Nhưng bà không ngăn cấm ông, và như vậy là đủ. Ông không quan trọng việc bà không bao giờ tham dự những cuộc họp với các giáo viên, hoặc bà không bao giờ hiểu ông, hoặc chưa ai từng mời gia đình ông đến những bữa ăn đồ nướng hay những buổi tiệc tùng của hàng xóm. Điều quan trọng là bà đã cho phép ông, không chỉ đối với việc tìm ra niềm đam mê của mình, mà còn theo đuổi nó, dù cho bà ngờ vực lý do. Và bằng cách nào đó, bà đã giữ cha ông, người luôn diễu cợt ý tưởng có thể kiếm sống bằng âm nhạc, khỏi việc ngăn cấm ông. Và với điều đó, ông sẽ mãi yêu bà.
Jonah tiếp tục chạy chầm chậm qua lại, dù con diều không cần điều đó. Steve biết gió đủ mạnh để giữ nó bay cao. Ông có thể nhìn thấy đường nét của biểu tượng Batman in bóng giữa hai đám mây mù, loại mây báo hiệu cơn mưa sắp đến. Dù trận mưa mùa hè sẽ không déo dài lâu - có lẽ chỉ một giờ trước khi bầu trời quang đãng trở lại - Steve đứng lên để nói với Jonah có lẽ đã đến thời điểm tốt để thu diều lại. Ông bước vài bước, trước khi nhận ra một loạt đường kẻ mờ nhạt trên cát dẫn đến đụn cát phía sau nhà ông, dấu vết ông đã thấy hàng tá lần khi ông lớn lên. Ông mỉm cười.
"Này. Jonah" Ông gọi, đi theo dấu vết. "Đến đây đi! Có vài thứ cha nghĩ con nên thấy."
Jonah chạy chầm chậm đến chỗ ông, con diều giật mạnh cánh tay cậu bé. "Cái gì thế?"
Steve đi xuống đụn cát đến chỗ tiếp nối với bờ biển. Có vài quả trứng có thể thấy được bên dưới mặt cát một đôi inch khi Jonah đến bên ông.
"Cha kiếm gì thế?" Jonah hỏi.
"Đó là tổ loggerhead." Steve trả lời. "Nhưng đừng đến quá gần. Và đừng chạm vào. Con không nên quấy rầy nó."
Jonah nghiêng người gần hơn, vẫn giữ cánh diều.
"Loggerhead là gì?" Cấu bé hổn hển, vật lộn để kiểm soát con diều.
Steve với tay lấy một mẩu gỗ dạt, và bắt đầu vạch một vòng tròn lớn quanh cái tổ. "Đó là một loài rùa biển. Một loài đang bị nguy hiểm. Bọn chúng lên bờ vào ban đêm để đẻ trứng."
"Phía sau nhà của chúng ta sao?"
"Đây là một trong những nơi rùa biển đẻ trứng. Nhưng điều quan trọng con nên biết, là chúng đang gặp nguy hiểm. Con có biết điều đó nghĩa là gì không?"
"Nó có nghĩa là chúng đang chết dần," Jonah trả lời. "Con đã xem chương trình Animal Planet, cha biết đấy."
Steve hoàn tất vòng tròn và ném mẩu gỗ sang bên cạnh. Khi đứng lên, ông cảm thấy một cơn đau nhói, nhưng ông lờ nó đi. "Không chính xác. Nó có nghĩa là nếu chúng ta không cố gắng giúp đỡ chúng và chúng ta không cẩn thận, thì loài này có thể bị tuyệt chủng."
"Giống như khủng long ư?"
Steve định trả lời khi ông nghe thấy điện thoại trong bếp bắt đầu reo vang. Ông đã để cửa sau mở để đón bất kỳ cơn gió lạc nào, và ông vừa đi vừa chạy chầm chậm qua bãi cát cho đến khi ông đến hiên sau. Ông thở khó nhọc khi trả lời điện thoại.
"Cha?" Ông nghe trên điện thoại.
"Ronnie ư?"
"Con cần cha đến đón con. Con đang ở đồn cảnh sát."
Steve với tay lên chà sát sống mũi. "Được rồi," Ông nói. "Cha sẽ đến ngay."
Pete Johnson, cảnh sát trưởng, kể với ông những gì đã xảy ra, nhưng ông biết Ronnie vẫn chưa sẵn sàng nói về điều đó. Tuy vậy, Jonah không có vẻ quan tâm.
"Mẹ sẽ nổi điên mất." Jonah nhắc nhở.
Steve thấy hàm của Ronnie nghiến chặt.
"Chị không làm điều đó." Cô bắt đầu.
"Vậy ai làm?"
"Chị không muốn nói về chuyện đó," Cô nói. Cô khoanh tay và nghiêng người dựa vào cánh cửa xe hơi.
"Mẹ sẽ không thích điều đó đâu."
"Chị không làm điều đó!" Ronnie lập lại, xoay về phía Jonah, "Và chị không muốn em kể với Mẹ là chị làm." Cô muốn chắc chắn cậu bé hiểu là cô nghiêm túc trước khi quay lại đối diện với cha cô.
"Con không làm điều đó, Cha à." Cô lập lại. "Con thề trước Chúa là con không làm. Cha phải tin con."
Ông nghe thấy dấu hiệu tuyệt vọng trong giọng cô, nhưng không thể kềm nén việc nhớ đến nỗi thất vọng của Kim khi họ nói chuyện về các sự kiện cũ của Ronnie. Ông nghĩ đến cách cô hành động từ khi đến đây và dính líu đến loại người mà cô lựa chọn làm bạn bè.
Thở dài, ông cảm thấy chút năng lượng nhỏ nhoi vừa tìm thấy phai tàn. Trên đầu, mặt trời như một quả banh lửa thiêu đốt và giận dữ, và trên tất cả, ông biết con gái ông cần sự thật
"Cha tin con." Ông nói.
Vào lúc họ về nhà, hoàng hôn đã xuống. Steve ra ngoài để kiểm tra tổ rùa. Đó là một trong những buổi hoàng hôn tráng lệ của vùng Carolinas - làn gió nhẹ mơn man, bầu trời như một chiếc mền bông với hàng ngàn màu sắc khác nhau - và ngoài khơi xa, một tốp cá heo đang đùa giỡn gần vùng chân trời. Chúng vượt qua khu nhà hai lần một ngày, và ông nhắc nhở bản thân sẽ nói cho Jonah để cậu bé quan sát chúng. Không nghi ngờ gì cậu bé sẽ muốn bơi ra đó để nhìn ngắm nếu như cậu có thể đến đủ gần để chạm vào chúng; Steve thường cố làm điều tương tự khi ông còn nhỏ, nhưng chưa một lần thành công.
Ông sợ phải gọi cho Kim và kể với bà chuyện xảy ra. Để trì hoãn, ông ngồi xuống đụn cát bên cạnh tổ rùa, nhìn chằm chằm vào dấu vết con rùa để lại. Với gió và đám đông, phần lớn dấu vết đã bị xóa mất. Không kể đến chỗ lõm xuống nhỏ bé, nơi đụn cát gặp bờ biển, chiếc tổ gần như không thể nhìn thấy, và đôi quả trứng ông có thể thấy được trông tương tự những hòn đá xanh xám, trơn láng.
Một mảnh Styrofoam bị gió thổi trên mặt cát, và khi ông nghiêng người nhặt nó lên, ông nhận ra Ronnie đang tiến đến. Cô đi chậm, cánh tay khoanh lại, đầu cúi xuống để tóc cô che phủ phần lớn gương mặt cô. Cô ngừng chân cách ông vài feet.
"Cha không nổi khùng với con sao?" Cô hỏi.
Đó là lần đầu tiên từ khi đến đây, cô nói với ông mà không mang dấu hiệu giận dữ hoặc làm ông thất vọng.
"Không." Ông đáp. "Không chút nào."
"Vậy điều gì đang xảy ra ngoài đây?"
Ông chỉ vào chiếc tổ. "Một con rùa loggerhead đã đẻ trứng ở đây đêm qua. Con đã bao giờ thấy chúng chưa?"
Ronnie lắc đầu và Steve tiếp tục. "Chúng là những sinh vật xinh đẹp. Chúng có chiếc mai màu đỏ nâu và có thể nặng đến tám trăm pound. Bắc Carolina là một trong vài nơi chúng làm tổ. Nhưng dù sao đi nữa chúng đang bị nguy hiểm. Cha nghĩ, chỉ một trong cả ngàn con sống sót được cho đến tuổi trưởng thành, và cha không muốn những con gấu trúc tìm thấy cái tổ trước khi chúng nở."
"Làm thế nào gấu trúc có thể biết được cái tổ ở đây?"
"Khi một con loggerhead cái đẻ trứng, nó đi tiểu. Gấu trúc có thể ngửi thấy mùi và chúng sẽ ăn sạch những cái trứng. Khi cha còn trẻ, cha thấy một tổ rùa bên cạnh bến tàu. Ngày hôm trước mọi thứ rất tốt, ngày kế tiếp tất cả những cái vỏ đã bị vỡ. Điều đó thật tệ."
"Con đã trông thấy một con raccoon trên hiên nhà chúng ta vào hôm kia."
"Cha biết. Nó đã lục tung túi rác. Và ngay khi cha vào trong nhà, cha sẽ gởi một tin nhắn cho viện Hải Dương. Hy vọng rằng họ sẽ gởi ai đó vào ngày mai với một cái lồng đặc biệt để giữ những sinh vật sống cách xa.
"Đêm nay thì sao?"
"Cha đoán là chúng ta phải có lòng tin cậy thôi."
Ronnie nhét một dải tóc vào sau tai. "Cha à? Con có thể hỏi cha điều này không?"
"Bất kỳ điều gì."
"Tại sao cha nói cha tin con?"
Trong nét mặt trông nghiêng, ông có thể thấy cả người phụ nữ trẻ mà cô trở thành và cô bé mà ông từng nhớ.
"Vì cha tin tưởng con."
"Đó là lý do cha dựng một bức tường để che dấu cây đàn piano sao?" Cô chỉ nhìn ông một cách gián tiếp. "Khi con vào trong nhà, điều đó không quá khó để bỏ lỡ."
Steve lắc đầu. "Không. Cha làm điều đó bởi vì cha yêu con."
Ronnie lóe lên một nụ cười nhẹ, lưỡng lự trước khi lấy một chỗ ngồi bên cạnh ông. Họ nhìn những con sóng xô đều đặn vào bờ. Thủy triều sẽ lên sớm và bãi biển sẽ mất đi một nửa.
"Điều gì sẽ xảy đến với con?" Cô hỏi.
"Pete sẽ nói chuyện với người chủ cửa hàng, nhưng cha không biết. Một số dĩa nhạc đó là những món của nhà sưu tập thật sự. Chúng khá giá trị."
Ronnie thấy dạ dày cô cuộn lên. "Cha đã kể với Mẹ chưa?"
"Chưa."
"Cha sẽ làm chứ?"
"Chắc chắn rồi."
Không ai trong họ nói điều gì trong một lúc. Ở mép nước, một nhóm người lướt sóng đi ngang qua, ôm theo những tấm ván của họ. Ngoài xa những con sóng cồn tăng lên chậm rãi hình thành nên những ngọn sóng xô vào nhau trước khi sát nhập lại.
"Khi nào cha sẽ gọi cho viện Hải dương?"
"Khi cha vào trong nhà. Dù sao cha cũng chắc chắn Jonah đang thấy đói rồi. Có lẽ cha nên bắt đầu bữa tối."
Ronnie nhìn chiếc tổ. Với bao tử đang cuộn thành nút, cô không thể hình dung việc ăn uống. "Con không muốn có điều gì xảy ra cho chiếc tổ đêm nay."
"Steve quay nhìn cô. "Vậy con muốn làm gì?"
Vài giờ sau, sau khi đưa Jonah vào giường, Steve bước ra ngoài hiên sau để kiểm tra Ronnie. Lúc sớm, sau khi để lại thông tin cho viện hải dương, ông đã đến cửa hàng để mua những thứ ông nghĩ cô cần: một túi ngủ nhẹ, một đèn lồng cắm trại, một chiếc gối rẻ tiền, và vài lọ xịt chống côn trùng.
Ông không thoải mái với ý nghĩ Ronnie ngủ ngoài trời. Nhưng cô đã quyết định một cách dứt khoát và ông khâm phục cơn bốc đồng muốn bảo vệ chiếc tổ của cô. Cô cứ khăng khăng rằng cô sẽ ổn, và trong chừng mực, ông tin rằng cô đúng. Giống phần lớn những người lớn lên ở Manhattan, cô được học phải thận trọng, đã được chứng kiến và đủ nhận thức trên thế giới để nhận ra một nơi nguy hiểm. Hơn nữa chiếc tổ chỉ cách cửa sổ phòng ngủ của ông chưa đến năm mươi feet - ông có ý định để cửa mở - nên ông chắc chắn sẽ nghe thấy nếu Ronnie gặp phải rắc rối. Với hình thể đụn cát bị gió thổi và vị trí của chiếc tổ, không có khả năng ai đó dạo chơi trên bãi biển nhận ra cô ở đó.
Tuy nhiên, cô chỉ mới mười bảy, và ông là cha cô, tất cả điều đó có nghĩa là, rốt cuộc, ông chắc chắn sẽ kiểm tra cô mỗi vài giờ. Không có khả năng nào ông có thể ngủ suốt đêm.
Mặt trăng chỉ là một mảnh nhỏ, nhưng bầu trời rất trong, và khi di chuyển xuyên qua bóng tối, ông nghĩ về cuộc chuyện trò của họ. Ông băn khoăn không biết cô cảm thấy thế nào về việc ông che dấu cây đàn piano. Cô có thức dậy vào sáng mai với thái độ tương tự mà cô đã có trong ngày đầu tiên cô đến đây hay không? Ông không biết. Khi ông đến đủ gần để nhận ra hình dáng đang ngủ của Ronnie, sự lung linh của ánh sao và bóng tối khiến cô có cả vẻ trẻ con lẫn chững chạc hơn là cô thật sự có. Ông nghĩ lần nữa đến những năm tháng ông đã bỏ lỡ và sẽ không bao giờ lấy lại được nữa.
Ông ở lại đủ lâu để nhìn mọi nơi trên bãi biển. Trong chừng mực ông có thể nói, không ai ở ngoài trời, vì thế ông quay người và đi vào trong nhà. Ông ngồi xuống chiếc ghế dài và bật TV, chuyển qua mọi kênh trước khi tắt nó đi. Cuối cùng ông về phòng và trườn vào giường.
Ông cảm thấy giấc ngủ đến ngay lập tức nhưng thức dậy một giờ sau đó. Nhẹ bước ra bên ngoài lần nữa, ông đi kiểm tra cô con gái mà ông yêu quý hơn cả mạng sống của chính mình.
Bản Tình Ca Cuối Cùng Bản Tình Ca Cuối Cùng - Nicholas Sparks Bản Tình Ca Cuối Cùng