Tôi biết giá trị của thành công: cống hiến, làm việc chăm chỉ, và sự hy sinh không cần bù đắp cho những việc bạn muốn nó xảy ra.

Frank Lloyd Wright

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 190
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 24
Ô BOWERS XẢ TAY ÁO XUỐNG khi bước ra khỏi phòng của bác sĩ Bessner.
Jacqueline liền rời khỏi chỗ Cornelia và đi theo cô y tá.
Cô dò hỏi: “Anh ấy sao rồi?”
Poirot lên vừa kịp lúc nghe câu trả lời. Cô Bowers trông có vẻ lo lắng và nói: “Mọi việc diễn biến không quá tệ.”
Jacqueline liền khóc: “Tức là anh ấy tệ hơn sao?”
“Vâng, tôi phải nói rằng tôi chỉ yên tâm khi chúng ta tới nơi và chụp X-quang, mọi thứ phải được làm xong sau khi gây mê. Ông nghĩ khi nào thì chúng ta đến Shellal, ông Poirot?”
“Sáng ngày mai.”
Cô Bowers mím môi và lắc đầu.
“May mắn rồi. Chúng tôi đang làm hết sức trong khả năng của mình, nhưng lúc nào cũng có nguy cơ về việc nhiễm trùng huyết.”
Jacqueline chụp lấy tay cô Bowers và lắc nhẹ.
“Anh ấy sẽ chết sao? Có phải anh ấy sẽ chết không?”
“Kìa cô de Bellefort, không đâu. Ấy là tôi hi vọng không phải như thế, tôi chắc vậy. Bản thân vết thương không nguy hiểm, nhưng nó phải được chụp X-quang càng sớm càng tốt. Và sau đó, dĩ nhiên là hôm nay anh Doyle tội nghiệp phải hoàn toàn được yên tĩnh. Anh ấy đã lo lắng và kích động quá nhiều rồi. Nhiệt độ của anh ấy đang tăng. Bị sốc vì vợ mất, rồi thứ này, thứ kia…”
Jacqueline buông tay cô y tá ra rồi quay người lại, cô đứng tựa vai vào tường, quay lưng lại với hai người kia.
Bowers tiếp: “Những gì tôi nói là chúng ta phải luôn hi vọng vào những điều tốt nhất. Dĩ nhiên anh Doyle có thể trạng rất tốt – hầu như chưa bao giờ bệnh một ngày nào. Đó là điểm mạnh của anh ấy. Nhưng cũng không thể phủ định việc tăng nhiệt độ là một dấu hiệu không tốt và…”
Cô lắc đầu, lại chỉnh sửa ống tay áo và nhanh chóng đi nơi khác.
Jacqueline quay lại và đi về hướng ca-bin của mình một cách thểu não, nước mắt giàn giụa. Bàn tay cô mò mẫm tìm đường. Cô tìm Poirot ngay bên cạnh qua làn nước mắt, dựa vào người ông và được ông đưa về đến cửa phòng.
Jacqueline nằm vật xuống giường, nước mắt tuôn lã chã cùng với các tiếng nấc xen kẽ.
“Anh ấy sẽ chết! Anh ấy chết mất thôi! Tôi biết là anh ấy sẽ chết… Chính tôi đã giết anh ấy. Đúng thế, tôi đã giết anh ấy rồi…”
Poirot nhún vai, lắc đầu rồi buồn rầu an ủi: “Kìa cô, chuyện gì đã xảy ra thì cũng đã xảy ra rồi. Người ta không thể hồi lại những việc đã làm. Đã quá muộn để hối tiếc.”
Cô liền khóc to và thảm thiết hơn: “Tôi đã giết chết anh ấy! Tôi yêu anh ấy nhiều lắm… tôi yêu anh ấy rất nhiều.”
Poirot thở dài nói. “Quá nhiều…”
Đó từng là điều ông nghĩ, từ lâu lắm rồi khi ở trong nhà hàng của Blondin. Và bây giờ ông cũng nghĩ như thế.
Sau một hồi do dự ông nói: “Bất cứ giá nào cô cũng không nên nghe những điều cô Bowers nói. Các y tá, theo tôi, lúc nào cũng bi quan cả! Các cô y tá ca đêm thì luôn ngạc nhiên khi thấy bệnh nhân của mình vẫn sống sót vào ban đêm; các cô y tá ban ngày cũng luôn ngạc nhiên khi thấy bệnh nhân còn sống vào ban ngày! Cô thấy đấy, họ biết quá nhiều về các khả năng có thể xảy ra. Một người lái xe thì thường sẽ nghĩ: ‘Nếu có một chiếc xe hơi băng ra từ ngã tư – nếu một xe tải lùi đột ngột – hay là nếu bánh xe của chiếc xe đang tới bị văng ra – hoặc nếu có một con chó nhảy vào đường tôi đang chạy – ồ thế đấy, tôi có thể bị chết!’ Nhưng người ta cho rằng – khi không có bất cứ chuyện gì sẽ xảy ra – người ta cũng phải đi đến cuối con đường của mình. Nhưng dĩ nhiên nếu như bị tai nạn hay thấy ít nhất một tai nạn rồi thì người ta có xu hướng suy nghĩ chiều ngược lại.”
Jacqueline cười trong nước mắt, hỏi: “Ông đang cố an ủi tôi phải không, ông Poirot?”
“Chỉ có Chúa lòng lành biết tôi đang cố làm gì thôi! Lẽ ra cô không nên đi chuyến này.”
“Ước gì tôi không đi. Thật tệ quá. Nhưng – sẽ sớm qua thôi.”
“Đúng thế – đúng thế.”
“Rồi Simon sẽ được đưa đi bệnh viện, được điều trị và mọi thứ sẽ ổn.”
“Cô nói cứ y như một đứa con nít: ‘Rồi họ sẽ sống hạnh phúc mãi mãi.’ Phải vậy không?”
Cô đột nhiên đỏ bừng mặt.
“Ông Poirot – tôi chưa bao giờ có ý như thế – chưa bao giờ…”
“Còn quá sớm để nghĩ những thứ như thế! Nghe đạo đức giả quá, phải không cô? Nhưng Jacqueline, cô có một nửa dòng máu Latin mà. Cô có thể thừa nhận sự thật ngay cả lúc không thích đáng. Nhà vua này chết – thì có nhà vua khác lên ngôi! Mặt trời lặn thì mặt trăng lên. Có phải vậy không?”
“Ông không hiểu gì cả. Anh ấy chỉ thấy tội nghiệp cho tôi – thật sự thương tôi, bởi vì anh ấy biết tôi cảm thấy tệ thế nào khi đã làm anh ấy bị thương như thế.”
Poirot liền nói: “Ồ, thế à. Chỉ tội nghiệp thôi sao, cao thượng quá nhỉ.”
Ông nhìn cô nửa chế giễu nửa mang tâm trạng khác.
Rồi ông khẽ bài ngâm thơ bằng tiếng Pháp:
“Đời là hư không.
Một chút tình yêu,
Một chút hận thù,
Sau đó trời đẹp.
Cuộc đời ngắn ngủi.
Một chút hi vọng,
Một chút giấc mơ,
Sau đó trời đẹp.”
Ông trở ra ngoài tàu. Đại tá Race đang rải bước dọc theo con tàu cất tiếng gọi khi vừa nhác thấy ông.
“Poirot. Tốt rồi! Tôi đang cần anh đây. Tôi có ý kiến này.” Ông khoác tay Poirot và cùng đi lên tầng trên.
“Chỉ là một nhận xét về Doyle thôi. Lúc đó tôi không nhận ra. Có gì đó về bức điện tín.”
“Thế à – có gì không?”
“Có lẽ không có gì cả, nhưng người ta thường không thể để thứ gì bí mật cả. Chết tiệt thật, hai vụ giết người và chúng ta vẫn còn mò mẫm trong bóng tối.”
Poirot lắc đầu: “Không, không còn ở trong tối nữa đâu. Ớ ngoài sáng rồi.”
Race tò mò nhìn ông. “Anh có ý gì à?”
“Bây giờ còn hơn cả ý kiến nữa. Tôi chắc chắn.”
“Kể từ – khi nào?”
“Từ lúc cô hầu gái Louise Bourget chết.”
“Tôi chẳng hiểu cái quái gì cả!”
“Anh bạn của tôi, rất rõ ràng – quá rõ ràng. Chỉ có những khó khăn – bối rối – trở ngại! Anh thấy đấy, quanh một người như Linnet Doyle có quá nhiều sự ghét bỏ, ghen tị, ác cảm và ích kỷ. Chúng như một đám mồi cứ bay o o, o o xung quanh…”
“Nhưng anh cho rằng anh biết sao?” Race nhìn ông tò mò. “Anh sẽ không nói thế nếu anh không chắc. Không thể nói là bản thân tôi đã lần ra một tia sáng thật sự nào. Dĩ nhiên tôi còn nhiều nghi ngờ…”
Poirot ngừng rồi ông đặt bàn tay lên tay Race.
“Anh thật là một người tuyệt vời, Đại tá của tôi… Anh không nói là: ‘Cho tôi biết anh nghĩ cái gì đi.’ Anh biết là tôi sẽ nói nếu được. Nhưng trước tiên phải làm rõ nhiều thứ đã. Anh hãy suy nghĩ, suy nghĩ những điểm tôi sẽ chỉ ra. Có một số điểm… Có một câu của cô de Bellefort nói rằng có ai đó đã nghe lén được câu chuyện của chúng tôi ngay tối ở trong vườn tại Assuan. Có một câu của anh Tim Allerton về những điều anh nghe được và làm đêm hôm án mạng. Những câu trả lời quan trọng của Louise Bourget sáng hôm nay. Có một sự thật là bà Allerton uống nước, con trai bà uống whisky và soda, còn tôi uống rượu vang. Thêm vào việc hai chai sơn móng tay và câu ngạn ngữ tôi đưa ra. Cuối cùng là mấu chốt của vấn đề, việc khẩu súng được bọc bởi một khăn tay rẻ tiền và một mảnh vải nhung màu tím và bị ném xuống sông…”
Race im lặng trong giây lát rồi lắc đầu.
Ông thú nhận: “Không, tôi vẫn chưa thấy gì. Xin lỗi, tôi biết anh muốn hướng tôi tới cái gì, nhưng theo tôi thấy thì đến giờ nó vẫn chưa có tác dụng.”
“Có đó… có đó. Anh chỉ mới thấy một nửa sự thật thôi. Và hãy nhớ điều này – chúng ta phải bắt đầu lại từ đầu bởi vì khởi đầu chúng ta đã hoàn toàn sai rồi.”
Race tức thì nhăn mặt.
“Tôi quen với chuyện đó rồi. Đối với tôi, những việc trinh thám thường là gạt bỏ hết các khởi đầu sai và bắt đầu lại.”
“Đúng, sự thật là thế. Vậy mà nhiều người không làm. Họ chấp nhận một giả thuyết nào đó, và cứ thế tuân theo. Nếu có một sự kiện nhỏ không phù hợp, họ sẽ quẳng nó sang một bên. Nhưng thường các sự việc không tuân theo giả thuyết lại quan trọng. Tôi phát hiện ra sự quan trọng của việc khẩu súng biến mất khỏi hiện trường. Tôi biết nó có ý nghĩa gì đấy, nhưng tôi chỉ mới phát hiện được nó cách đây nửa tiếng thôi.”
“Tôi vẫn chưa thấy gì cả!”
“Rồi anh sẽ thấy thôi! Chỉ cần suy nghĩ những điểm tôi đã chỉ ra. Còn bây giờ chúng ta hãy làm rõ vụ bức điện tín. Ấy là nếu vị bác sĩ chấp nhận việc này với chúng ta.”
Bác sĩ Bessner vẫn còn không vui. Ông trả lời tiếng gõ cửa của hai người đàn ông bằng gương mặt nhăn nhó.
“Có chuyện gì thế? Các ông lại muốn gặp bệnh nhân của tôi à? Tôi nói cho các ông biết, như thế thật không khôn ngoan chút nào cả. Anh ấy đang bị sốt. Hôm nay đã có quá nhiều kích động cho anh ấy rồi.”
Race liền nói: “Chỉ một câu hỏi thôi. Tôi đảm bảo với anh là không hơn nữa đâu.”
Vị bác sĩ dịch sang một bên, vẫn càm ràm khó chịu, hai người kia liền bước vào trong ca-bin. Bác sĩ Bessner vừa làu bàu vừa đi ra: “Tôi sẽ quay lại trong ba phút. Và sau đó, dĩ nhiên – các anh phải rời khỏi đây ngay!”
Và họ nghe thấy tiếng ông đi sầm sập xuống tầng dưới.
Simon Doyle hết nhìn người này đến người kia rồi hỏi: “Vâng, có chuyện gì thế?”
Race trả lời: “Một việc nhỏ thôi. Mới vừa nãy, các anh phục vụ có báo cáo với tôi là ngài Richetti đã rất khó chịu. Anh nói rằng nó không làm anh ngạc nhiên, vì anh biết ông ta rất nóng tính, và ông ta đã thô lỗ với vợ anh vì bức điện tín gì đó. Anh có thể cho chúng tôi biết về chuyện đó không?”
“Đơn giản thôi. Lúc đó là ở Wadi Halfa. Chúng tôi vừa trở về từ ghềnh thác. Linnet nghĩ rằng cô ấy thấy một bức điện tín cho mình ở trên tàu. Các ông cũng thấy đấy, cô ấy quên đã không còn mang họ Ridgeway nữa, vả lại Richetti và Ridgeway nhìn cũng hơi giống nhau khi chúng được viết ngoáy bằng tay. Do đó cô ấy đã xé nó ra, không biết đầu đuôi như thế nào, và lúc đang còn chưa hiểu gì về nó thì Richetti đã đến bên cạnh, giật bức thư khỏi tay cô ấy và nổi cơn tam bành. Cô ấy liền đi theo xin lỗi nhưng ông ta đã cư xử rất thô lỗ.”
Race hít một hơi sâu hỏi: “Vậy anh Doyle, anh có biết gì về nội dung của bức điện tín đó không?”
“Có chứ. Linnet đã đọc một phần. Bức điện tín ghi…”
Anh ngừng lời. Bên ngoài chợt có tiếng động. Một giọng tông cao đang tiến nhanh đến.
“Ông Poirot và Đại tá Race ở đâu thế? Tôi phải gặp họ ngay lập tức! Điều này rất quan trọng. Tôi có một thông tin sốt dẻo. Tôi – họ đang ở chỗ anh Doyle à?”
Bessner hồi nãy không đóng cửa, chỉ có tấm rèm che ở lối ra vào. Bà Otterbourne vén nó sang một bên rồi bước vào như cơn lốc. Mặt bà đỏ bừng bừng, chân đi loạng choạng, từ ngữ có vẻ không kiểm soát được.
Bà thống thiết nói: “Anh Doyle, tôi đã biết ai giết vợ anh rồi!”
“Cái gì?”
Simon trân trân nhìn bà. Cả hai người kia cũng vậy.
Bà Otterbourne gạt ngang ba người họ bằng cái nhìn đắc ý. Bà đang vui – rất vui.
Bà nói: “Đúng. Giả thuyết của tôi rất rõ ràng. Những biểu hiện đầu tiên – dường như không thể – nhưng thật tuyệt – nó lại là sự thật!”
Race liền nghiêm nghị nói: “Tôi có thể hiểu rằng bà đã có chứng cứ trong tay để chỉ ra ai là kẻ giết cô Doyle phải không?”
Bà Otterbourne liền ngồi xuống ghế và nghiêng người về trước, gật đầu xác nhận.
“Dĩ nhiên là tôi có chứ. Các ông cũng đồng ý rằng kẻ giết Louise Bourget cũng chính là kẻ đã giết Linnet Doyle – rằng hai vụ này đều do cùng một bàn tay thực hiện, phải không?”
Simon vội vàng đáp: “Đúng, đúng. Dĩ nhiên. Điều đó cũng hợp lý. Bà tiếp đi.”
“Vậy thì khẳng định của tôi đúng rồi. Tôi biết ai giết Louise Bourget; do đó tôi biết ai đã giết Linnet Doyle.”
Race liền nghi ngờ hỏi: “Ý bà là bà đoán được ai giết Louise Bourget?”
Bà liền hùng hổ quay sang ông.
“Không, tôi biết chính xác. Chính mắt tôi đã thấy người đó.”
Simon cảm thấy phát sốt và la to lên: “Vì Chúa, hãy kể từ đầu đi. Bà nói là bà biết người đã giết Louise Bourget ư?”
Bà Otterbourne gật đầu.
“Tôi sẽ kể cho mọi người nghe chính xác điều gì đã xảy ra.”
Đúng, không nghi ngờ gì nữa, bà đang rất vui! Đây là thời khắc của bà, sự chiến thắng của bà! Chuyện gì nhỉ, khi mà sách của bà không còn bán được, khi lũ độc giả ngu ngốc kia đã từng mua và đọc chúng một cách ngấu nghiên, bây giờ lại quay sang một niềm yêu thích mới? Salome Otterbourne sẽ lại một lần nữa trở nên ‘nổi tiếng’. Tên của bà sẽ xuất hiện trên các tờ báo. Bà sẽ là nhân chứng chính cho việc cáo buộc tại phiên tòa.
Bà hít một hơi sâu rồi bắt đầu.
“Đó là lúc tôi xuống đi ăn trưa. Khi ấy tôi chưa muốn ăn – vẫn còn sợ sau tấn thảm kịch mới xảy ra – à, thật ra tôi không cần lòng vòng như thế. Nửa đường đi, tôi chợt nhớ ra mình quên… ơ… thứ gì đó ở trong ca-bin. Tôi bảo Rosalie cứ đi xuống tiếp một mình. Và nó đã làm như thế.”
Bà Otterbourne ngừng lại trong giây lát.
Bức màn ngay cửa khẽ lay động như bị gió thổi, nhưng không ai trong ba người đàn ông nhận ra điều đó.
“Tôi… ơ…” Bà Otterbourne lại ngừng lời. Đây là điểm hơi khó nói, nhưng cũng phải được thực hiện. “Tôi… ơ… có một cuộc hẹn với một trong… ơ… những người của nhà tàu. Anh ta sẽ… ơ… đưa tôi thứ tôi cần, nhưng tôi không muốn con gái mình biết. Thế nào nó cũng sẽ rất khó chịu…”
Chuyện này có vẻ không ổn lắm, nhưng bà đang cố nghĩ cái gì đó tốt hơn trước khi sự thật bị phơi bày.
Race nhướng mày ngầm hỏi Poirot.
Poirot khẽ gật đầu. Miệng ông thể hiện chữ: “Rượu.”
Tấm rèm cửa lại rung rinh. Ở giữa nó và cánh cửa có vật gì đó phát ra ánh xanh kim loại.
Bà Otterbourne tiếp tục: “Việc gặp đó đòi hỏi tôi phải đi đến cuối con tàu ở tầng dưới, và tôi có thể tìm gặp người đang đợi mình ở đó. Lúc tôi đi dọc theo thân tàu, có một cửa ca-bin mở ra và có ai đó đang nhìn ra ngoài. Chính là cô gái này – cô Louise Bourget, hay bất kì tên gọi nào của cô ấy. Dường như cô ấy cũng đang đợi ai. Khi thấy tôi, trông cô có vẻ thất vọng và quay ngoắt vào trong phòng. Dĩ nhiên tôi không nghĩ gì về điều đó. Tôi đi tiếp cho đến khi nhận được… thứ từ người đàn ông. Tôi trả tiền và – ơ – chỉ nói một từ với anh ta. Rồi tôi quay về. Ngay vừa lúc tôi đến góc tàu, tôi đã thấy người gõ cửa phòng cô hầu gái và đi vào trong.”
Race liền hỏi: “Và người đó là…?”
Bang!
Tiếng nổ vang khắp phòng cùng với mùi khét lẹt lan tỏa khắp nơi. Bà Otterbourne đảo đầu sang hai bên như thể đang yêu cầu một điều gì đó đặc biệt, rồi người bà đổ ập về phía trước, ngã vật xuống đất. Phía sau tai bà có một dòng máu chảy ra từ một lỗ tròn nhỏ.
Không khí im lặng tê người. Rồi cả hai người đàn ông vội vã nhảy bổ ra khỏi chỗ của mình. Cái xác của người phụ nữ hơi cản trở họ một chút. Race bước qua người bà, còn Poirot nhảy như một con mèo ra khỏi cửa, lao về phía boong tàu.
Bên ngoài không có bóng dáng một ai. Ở dưới sàn, ngay trước ngạch cửa là khẩu súng Colt.
Poirot nhìn về hai phía, đều trống rỗng. Rồi viên thám tử đi về phía cuối tàu. Ngay ở khúc cua, ông gặp Tim Allerton đang chạy hết tốc lực từ phía ngược lại.
Tim nói không ra hơi: “Có chuyện quái quỷ gì thế?”
Poirot nghiêm giọng hỏi: “Anh có thấy ai trên đường tới đây không?”
“Thấy ai ư? Không.”
“Vậy thì đi với tôi.” Ông liền nắm cánh tay anh kéo đi. Bây giờ đã đông đúc hơn. Rosalie, Jacqueline, và Cornelia đã chạy nhanh ra khỏi ca-bin của mình. Nhiều người cũng đang ùa tới từ phòng lớn – Ferguson, Jim Fanthorp, và bà Allerton.
Race đứng ngay chỗ khẩu súng. Poirot quay đầu lại và hỏi Tim Allerton: “Anh có cái găng tay nào trong túi không?”
Tim lục lọi rồi nói: “Vâng, tôi có.”
Poirot nhận lấy từ anh, mang nó vào và kiểm tra khẩu súng lục. Race cũng làm tương tự. Những người khác thì nín thở theo dõi.
Race nhận định: “Hắn ta không thể chạy đường khác được. Fanthorp và Ferguson đang ngồi trong phòng khách; họ chắc hẳn phải thấy hắn.”
Poirot liền tiếp: “Và anh Allerton sẽ ghi nhận được nếu hắn chạy phía sau.”
Race chỉ vào khẩu súng nói: “Khá thú vị đây vì chúng ta vừa mới thấy nó không lâu. Nhưng dẫu sao cũng phải chắc ăn.”
Ông gõ cửa phòng của Pennington nhưng không có trả lời. Ca-bin không có người. Race liền bước tới chiếc tủ ở bên phải và giật ngăn tủ ra. Khẩu súng đã biến mất.
Race liền nói: “Xong. Bây giờ thì Pennington đang ở đâu?”
Họ ra lại boong tàu. Bà Allerton cũng tham gia vào nhóm. Poirot đi nhanh qua bà.
“Nhờ bà đi cùng với cô Otterbourne và chăm sóc cô ấy. Mẹ cô ấy vừa bị…” ông đưa mắt hỏi ý kiến Race và Race gật đầu, “… giết.”
Bác sĩ Bessner vội đi theo.
“Lạy Chúa lòng lành! Có gì ở đó vậy?”
Mọi người liền nhường đường cho ông. Race chỉ ca-bin và Bessner đi vào bên trong.
Race nói: “Tìm ngay Pennington. Xem có dấu vân tay trên khẩu súng không?”
Poirot đáp: “Không.”
Họ tìm thấy Pennington ở tầng dưới. Ông đang ngồi viết thư trong phòng vẽ nhỏ. Pennington ngẩng gương mặt nhẵn nhụi lên hỏi: “Có gì mới à?”
“Ông không nghe thấy tiếng súng nổ sao?”
“Sao thế – giờ ông nói tôi mới nhớ – hình như tôi có nghe thấy một tiếng ‘bang’ gì đó. Nhưng tôi không bao giờ tưởng tượng này nọ – Ai bị bắn thế?”
“Bà Otterbourne.”
“Bà Otterbourne?” Pennington la lên ngạc nhiên. “Ô, ông thật sự làm tôi ngạc nhiên đấy – Bà Otterbourne ư?” Ông lắc đầu. “Tôi không hiểu.” Rồi ông thấp giọng tiếp. “Có vẻ như, các ông ơi, trên tàu này có kẻ cuồng sát. Chúng ta phải tổ chức phòng thủ ngay.”
Race liền hỏi: “Ông Pennington, ông ở trong phòng này bao lâu rồi?”
“Sao, để tôi xem.” Pennington xoa cằm. “Khoảng hơn hai mươi phút.”
“Và ông không rời phòng chứ?”
“Sao, không – dĩ nhiên là không rồi.”
Ông thắc mắc nhìn hai người.
Race liền nói: “Pennington, ông biết đó, bà Otterbourne bị giết bởi khẩu súng của ông.”
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile