Trên mỗi ngọn núi đều có những lối đi mà khi đứng dưới thung lũng, bạn không thể nhìn thấy được.

James Rogers

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 189
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 22
ẠI TÁ RACE VỘI NÓI:
“Vụ chết tiệt này càng lúc càng rối rắm rồi đây.”Rồi ông cầm chuỗi hạt lên và tiếp: “Anh không nhận định sai đấy chứ? Tôi thấy rất ổn cơ mà.”
“Đúng – chúng đã được làm giả một cách tinh tế.”
“Vậy bây giờ chuyện này dẫn chúng ta đi đến đâu đây? Tôi nghĩ rằng Linnet không thể nào cho làm giả một cái rồi mang theo bên người cho an toàn. Nhiều phụ nữ vẫn thường làm thế.”
“Tôi nghĩ, nếu có chuyện đó thì chồng cô ấy sẽ biết.”
“Có thể cô ấy không kể cho chồng nghe.”
Poirot lắc đầu không vừa ý.
“Không, tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã ngưỡng mộ chuỗi ngọc trai của cô Doyle ngay đêm đầu tiên ở trên tàu – chúng đẹp và sáng bóng. Tôi tin là cô ấy đeo đồ thật.”
“Như vậy sẽ có hai khả năng. Một là bà Van Schuyler chỉ trộm được chuỗi hạt giả sau khi chuỗi hạt thật đã bị người nào khác lấy mất. Hai là toàn bộ câu chuyện về tật ăn cắp là bịa đặt. Dù cô Bowers có là ăn trộm, và nhanh miệng bịa chuyện, xóa đi nghi ngờ bằng việc trả lại chuỗi hạt giả, hoặc là toàn bộ băng trộm đó cùng làm, điều đó có nghĩa chúng là một băng trộm trang sức thông minh tự nhận mình là một gia đình danh giá người Mỹ.”
Poirot lầm bầm: “Đúng, thật khó nói. Nhưng tôi sẽ chỉ ra cho anh một điểm – để làm giả ngọc trai một cách tinh xảo giống như thật, đủ tốt để lừa cô Doyle, thì đòi hỏi phải có một bàn tay thật khéo léo. Điều này hoàn toàn không thể làm vội vàng được. Bất kì ai muốn sao chép những viên ngọc trai này phải có cơ hội tốt để nghiên cứu hàng thật.”
Race đứng dậy.
“Bây giờ thật vô ích để tìm hiểu sâu vấn đề này. Chúng ta hãy tiếp tục công việc đi. Chúng ta phải tìm được chuỗi hạt thật và đồng thời phải luôn để mắt quan sát.”
Họ xử lý những ca-bin có sử dụng ở tầng dưới. Ca-bin của ngài Richetti có một số bản thảo khảo cổ học bằng nhiều thứ tiếng, một vài bộ quần áo, nước xịt tóc loại xịn và hai lá thư riêng – một từ một đội nghiên cứu khảo cổ ở Syria, và một từ người chị gái ở Roma. Các khăn tay của ông có đủ loại màu.
Rồi họ đi qua ca-bin của Ferguson. Rải rác trong phòng là một số bài viết về cộng sản, nhiều hình chụp, quyển Ereivhon của Samuel Butler, và phiên bản rẻ tiền của quyển Hải trình của Pepys. Đồ dùng riêng của anh không có nhiều. Hầu hết những đồ mặc bên ngoài đều đã bị sờn và dơ; trái lại, đồ lót lại là những thứ rất tốt. Khăn tay toàn loại vải đắt tiền.
Poirot lẩm bẩm: “Vài sự khác biệt thú vị đây.”
Race gật đầu: “Khá lạ là hoàn toàn không có một giấy tờ, thư từ cá nhân gì cả.”
“Đúng, điều này sẽ làm người ta suy nghĩ. Anh Ferguson, một người đàn ông trẻ lạ lùng.” Ông ngắm nghía kỹ chiếc nhẫn có chạm khắc rồi đặt nó về lại chiếc tủ, nơi ông tìm thấy nó.
Hai người đàn ông đi tiếp đến ca-bin của Louise Bourget.
Cô hầu gái dùng bữa sau tất cả mọi hành khách khác, nhưng Race đã yêu cầu cô phải tham gia cùng với mọi người. Một người phục vụ đến gặp họ.
“Xin lỗi hai ông,” anh lên tiếng. “nhưng tôi không thể tìm thấy cô gái đó ở đâu hết. Không biết cô ấy đi đâu.”
Race liếc vào trong ca-bin. Hoàn toàn trống rỗng.
Rồi họ cùng đi lên tầng trên và bắt đầu từ phía mạn phải. Ca-bin đầu tiên là của Jim Fanthorp. Mọi thứ ở đây được sắp đặt trật tự. Fanthorp mang hành lí gọn nhẹ, nhưng mọi vật dụng của anh đều tốt.
Poirot nghiêm túc nói: “Không có lá thư nào cả. Anh Fanthorp của chúng ta đã cẩn thận phi tang mọi thứ liên quan rồi.”
Họ qua ca-bin tiếp theo, của Tim Allerton.
Mọi thứ ở đây cho thấy người chủ của nó đi theo trường phái công giáo Anglo – một bộ bức họa nhỏ tinh xảo, và một tràng hạt bằng gỗ được chạm khắc tinh tế. Ngoài quần áo cá nhân, Tim còn có một bản thảo dang dở, cùng nhiều ghi chú, ghi chép nguệch ngoạc, và một bộ sưu tập sách hầu hết vừa mới xuất bản. Trong tủ có nhiều thư bị vứt bừa bãi. Poirot, không bao giờ cố ý đọc trộm thư riêng của người khác, nên chỉ liếc mắt sơ qua. Ông phát hiện ra trong giữa đám thư đó không có lá nào từ Joanna Southwood cả. Viên thám tử cầm lên một chai keo dán giấy mân mê một hồi rồi nói: “Chúng ta đi tiếp thôi.”
“Không có khăn tay Woolworth nào cả,” Race báo cáo, rồi nhanh chóng đật lại đồ đạc vào trong tủ.
Ca-bin kế tiếp là của bà Allerton, khá ngăn nắp và tràn ngập mùi hoa oải hương. Hai người đàn ông kiểm tra nhanh chóng. Và trước khi rời khỏi phòng, Race nhận xét: “Đó là một người phụ nữ dễ thương.”
Căn phòng kế tiếp là căn được Simon Doyle sử dụng làm nơi thay đồ. Những đồ thiết yếu của anh – bộ pyjama, đồ vệ sinh cá nhân, và những thứ khác – đã được chuyển sang ca-bin của bác sĩ Bessner, những thứ còn lại vẫn ở đây – hai va-ly bằng da tốt và một túi nhỏ. Trong tủ cũng có một vài bộ quần áo.
Poirot đề nghị: “Chúng ta sẽ tìm thật kỹ ở đây vì tên trộm có thể giấu chuỗi ngọc trai ở nơi này.”
“Anh nghĩ có thể sao?”
“Đúng thế đấy. Hãy xem nhé! Bất kể tên trộm là ai thì cũng biết sớm muộn gì cũng sẽ có cuộc lục soát, do đó sẽ thật là khờ dại khi đem đi giấu trong ca-bin của mình. Còn phòng công cộng lại đưa tới những khó khăn khác. Nhưng đây là ca-bin của người đàn ông không thể tự mình đi đến được, do đó nếu chuỗi hạt có được tìm thấy ở đây, nó cũng không giúp ích gì cho mình.” Nhưng cuộc tìm kiếm kỹ lưỡng cũng không cho ra được dấu vết của chuỗi hạt bị mất.
Poirot tự lầm bầm “Chết tiệt!” và họ lại một lần nữa ra boong tàu.
Ca-bin của Linnet đã bị khóa lại sau khi đã chuyển xác đi, nhưng Race vẫn mang chìa khóa theo bên người, ông mở cửa và hai người cùng bước vào.
Mọi thứ trong phòng vẫn còn nguyên chỗ cũ như lúc sáng trừ thi thể của cô gái đã được đưa đi.
Race thốt lên: “Poirot này, nếu anh muốn tìm thứ gì ở đây thì làm đi nhé. Tôi biết mà, anh làm được dễ như bỡn.”
“Lần này ý anh không phải là chuỗi hạt ngọc trai đấy chứ, anh bạn của tôi?’
“Đúng đấy. Thứ chính yếu của vụ giết người. Có thể có thứ gì đấy tôi đã bỏ sót sáng nay.”
Poirot tiến hành tìm kiếm trong im lặng. Ông quỳ xuống sàn xem xét từng li một. Ông kiểm tra giường ngủ. Ông đến xem xét tủ quần áo và bên trong bàn trang điểm, ông lục soát kỹ thanh để quần áo và hai cái va-ly đắt tiền. Ông khám xét va-ly đựng đồ đắt giá. Cuối cùng, viên thám tử chú ý đến chỗ rửa mặt. Thứ duy nhất làm ông chú ý là hai lọ son móng tay dán nhãn Nailex. Cuối cùng ông cầm nó lên và mang lại bàn trang điểm. Một lọ, có nhãn là Nailex Rose, đã hết nhưng vẫn còn một hai giọt màu đỏ sẫm đọng ở dưới cùng. Còn lọ kia, cùng cỡ nhưng có nhãn Nailex Cardinal, vẫn còn khá đầy. Một cách cẩn thận, Poirot mở nắp cả hai lọ và ngửi chúng.
Một mùi nồng nặc lan tỏa khắp phòng, ông liền nhăn mặt và đậy nắp chúng lại.
Race liền hỏi: “Có thu được gì không?”
Poirot liền đáp bằng một câu ngạn ngữ của Pháp: “Mật ngọt chết ruồi.” Rồi ông thở dài tiếp: “Anh bạn ơi, chúng ta không may mắn rồi. Tên giết người đó không phạm bất kì một sai lầm nào. Hắn ta không để lại một dấu vết nào như nút áo, đầu lọc thuốc, tàn thuốc – hay trong trường hợp một người phụ nữ, thì là chiếc khăn tay, vết son, hay kẹp tóc.”
“Chỉ chai sơn móng tay này thôi hả?”
Poirot nhún vai. “Tôi phải hỏi cô hầu gái. Đúng – ở đây có gì đó hơi khác thường.”
Race nói: “Tôi không biết cô ấy biến mất phương nào?” Họ khóa cửa lại sau khi rời ca-bin, và đi tiếp qua phòng bà Van Schuyler.
Một lần nữa, ở đây thể hiện sự giàu có, toàn những vật dụng, hành trang đắt tiền, một số lá thư và giấy tờ riêng được xếp cẩn thận.
Phòng kế tiếp là phòng đôi của Poirot, trước đó nữa là phòng của Race. Đại tá nhận xét: “Thật khó để giấu nó ở một trong hai phòng này.”
Poirot ngần ngại đáp lại: “Có thể. Nhưng có một lần, tôi điều tra vụ giết người trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông, vụ án có liên quan đến một chiếc kimono màu đỏ. Nó biến mất, nhưng vẫn còn ở trên tàu. Về sau tôi đã tìm thấy nó – mà anh biết ở đâu không? Ngay trong va-ly đã khóa của tôi! Á! Thật là láo xược!”
“Thế thì để xem lần này có ai dám xấc xược với anh hoặc tôi không.”
Nhưng có vẻ tên trộm ngọc không dám vô lễ với cả Hercule Poirot và cả Đại tá Race.
Họ tiếp tục tìm kiếm trong ca-bin của cô Bowers ngay góc tàu nhưng cũng không tìm thấy được thứ gì đáng nghi. Khăn tay của cô toàn loại vải lụa với chữ cái viết tắt trên đó.
Kế tiếp là phòng của nhà Otterbourne. Một lần nữa Poirot lại không tìm được gì sau khi đã xem xét kỹ lưỡng.
Ca-bin kế tiếp là của Bessner. Simon Doyle đang nằm trong đó, bên cạnh khay thức ăn chưa đụng tới.
Anh nói với giọng có lỗi: “Đã quá bữa của tôi rồi.”
Trông anh Doyle vẫn còn hơi sốt và tệ hơn nhiều so với lúc sáng. Poirot cảm kích trước sự lo lắng của Bessner về việc đưa nạn nhân đến bệnh viện với thiết bị hỗ trợ cần thiết càng nhanh càng tốt. Ông thám tử người Bỉ nhỏ nhắn giải thích việc mà hai người đang làm, và Simon gật đầu đồng ý. Khi biết chuyện cô Bowers trả lại chuỗi ngọc trai nhưng lại là giả, anh rất ngạc nhiên.
“Anh có chắc không anh Doyle, việc vợ anh không có chuỗi hạt giả mang theo trên tàu thay vì chuỗi hạt thật?”
Simon lắc đầu cương quyết.
“Ô, chắc chắn là không. Tôi dám chắc điều đó. Linnet rất thích chuỗi ngọc ấy và đeo nó khắp mọi nơi. Chuỗi hạt còn được bảo hiểm cho mọi rủi ro, do đó tôi nghĩ điều đó có thể khiến cô ấy hơi chểnh mảng một chút.”
“Vậy chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm thôi.”
Ông bắt đầu mở tủ và Race bắt đầu lục soát chiếc va-ly. Simon tròn mắt. “Này, không phải các ông nghi ngờ ông Bessner già lấy nó đấy chứ?”
Poirot nhún vai. “Cũng có thể. Sau cùng thì chúng ta biết gì về bác sĩ Bessner nào? Chỉ là những gì ông ấy đưa ra thôi.”
“Nhưng ông ấy không thể giấu chúng ở đây mà tôi không thấy.”
“Ông ấy không thể giấu bất cứ thứ gì trong ngày hôm nay mà anh không thấy. Nhưng chúng ta không biết vụ tráo đồ xảy ra lúc nào. Có thể ông ấy làm việc đó cách đây mấy ngày.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ được đến thế.”
Nhưng cuộc tìm kiếm vẫn được tiếp tục.
Ca-bin kế tiếp là của Pennington. Hai người họ cũng mất một khoảng thời gian để lục soát, đặc biệt họ khám xét kỹ một va-ly đựng toàn giấy tờ pháp lý và kinh doanh, hầu hết đều cần chữ ký của Linnet.
Poirot lắc đầu không vui: “Mọi thứ dường như rõ ràng. Anh đồng ý chứ?”
“Nhất trí. Nhưng ông già này không phải là kẻ ngốc. Nếu có một giấy tờ nghi vấn nào đó – một thư ủy quyền hay là loại giấy tờ giống như vậy – chắc chắn ông ta đã hủy nó đầu tiên.”
“Đúng thế.”
Poirot nhấc lên một khẩu súng Colt to, nặng ra khỏi ngăn kéo đầu tiên, nhìn rồi đặt nó xuống, lầm bầm.
“Xem ra vẫn còn vài người đem theo súng lục khi đi du lịch nhỉ.”
“Đúng, có thể có một chút gợi ý. Nhưng Linnet Doyle không bị giết bởi loại súng cỡ đó.” Race ngừng một lát rồi nói tiếp: “Anh biết đấy, tôi vừa nghĩ ra một câu trả lời khả dĩ cho việc khẩu súng bị ném xuống nước. Giả sử rằng tên giết người thật sự đã để nó trong ca-bin của Linnet Doyle, và có một người khác – một người thứ hai – đã lấy nó và ném xuống nước?”
“Đúng. Cũng có thể. Tôi đã nghĩ đến trường hợp đó. Nhưng nó lại kéo theo hàng loạt câu hỏi. Ai là người thứ hai? Điều gì khiến họ phải bảo vệ Jacqueline de Bellefort bằng việc lấy đi khẩu súng? Người thứ hai làm gì ở đó? Người duy nhất chúng ta biết là bà Van Schuyler, chính bà ta đã vào phòng thôi. Có thể hiểu là bà Van Schuyler đã lấy nó không? Tại sao bà ấy lại muốn bảo vệ Jacqueline de Bellefort? Và nữa – có lý do nào khác cho việc lấy khẩu súng không?”
Race đề nghị: “Bà ta có thể đã phát hiện mảnh vải nhung là của mình nên đã quấn nó lại và ném cả gói nghi vấn đó đi.”
“Có thể là miếng vải, nhưng có phải bà ta cũng muốn tránh xa khẩu súng luôn không? Tôi đồng ý đó có thể là một giải pháp. Nhưng mà như thế… Chúa lòng lành… thật là vụng về. Vậy là anh chưa nghĩ đến một khía cạnh khác về mảnh vải…”
Ngay khi họ ra khỏi ca-bin của Pennington, Poirot đề nghị Race nên lục soát các ca-bin còn lại của Jacqueline, Cornelia và hai căn trống ở phía cuối, trong khi đích thân ông sẽ đến nói chuyện với Simon Doyle. Nói xong, ông liền quay lại và đi vào ca-bin của Bessner.
Simon thốt lên: “Ông à, tôi đang suy nghĩ. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng chuỗi ngọc trai không bị hề hấn gì vào ngày hôm qua.”
“Tại sao vậy, anh Doyle?”
“Bởi vì Linnet,” anh nghẹn lời khi nhắc đến tên người vợ của mình, “vẫn còn cầm nó trong tay ngay trước bữa tối và nhắc đến nó mà. Cô ấy có biết đôi chút về ngọc trai. Tôi tin rằng cô ấy sẽ biết nếu đó là đồ giả.”
“Nhưng là đồ giả cao cấp. Cho tôi biết là cô Doyle có thường không mang theo chuỗi ngọc không? Có khi nào cô ấy cho một người bạn mượn chẳng hạn?”
Simon đỏ mặt bối rối.
“Ông Poirot, ông cũng biết đấy, thật khó để tôi trả lời… tôi – tôi – à, ông cũng thấy đó, tôi biết Linnet chưa lâu lắm.”
“À, phải, tình yêu của anh thuộc dạng sét đánh mà.”
Simon tiếp tục. “Và – thật sự – tôi không biết những việc như thế. Nhưng Linnet rất phóng khoáng. Tôi nghĩ cô ấy đã từng làm thế rồi.”
“Cô ấy chưa bao giờ,” Poirot nói rất trơn tru, “chẳng hạn cô ấy chưa bao giờ cho cô de Bellefort mượn nó sao?”
“Ý ông là sao?” Simon đỏ mặt tía tai cố gắng ngồi dậy, khuôn mặt nhăn nhó, rồi sụp xuống trở lại. “Ông muốn nói gì? Jackie lấy trộm chuỗi ngọc đó sao? Cô ấy không làm như thế. Tôi thề là cô ấy không làm. Jackie là người ngay thẳng. Cho rằng cô ấy là tên trộm thật lố bịch – hoàn toàn lố bịch đó.”
Poirot nhìn anh với đôi mắt nhấp nháy, “Ô la la!” Đột nhiên ông thốt lên. “Đề nghị đó của tôi hóa ra lại khiến anh buồn sao.”
Simon lặp lại như cái máy, không dám nhúc nhích dưới cái nhìn nhẹ nhàng hơn của Poirot: “Jackie là người ngay thẳng!”
Poirot nhớ đến giọng nói của cô gái bên sông Nile Ở Assuan: ‘Tôi yêu Simon – và Simon cũng yêu tôi…’
Ông nghi ngờ không biết trong ba câu ông nghe được tối hôm ấy đâu là sự thật. Dường như chính Jacqueline là người nói đúng nhất.
Cánh cửa mở ra và Race bước vào.
“Không có gì,” ông cho biết một cách thất vọng. “Chúng ta không nghĩ thế. Tôi thấy mấy anh phục vụ đang đem báo cáo về kết quả kiểm tra các hành khách lại đây.”
Một người nam và nữ phục vụ xuất hiện ở ngay cửa. Người nam nói. “Không có gì, thưa ông.”
“Thế có quý ông nào gây ồn ào không?”
“Chỉ có quý ông người Ý thôi, thưa ông. Ông ta mang khá nhiều thứ, và nói việc này là không tôn trọng – hay tương tự như thế. Ông ta còn mang theo bên mình một khẩu súng.”
“Loại nào?”
“Thưa ông, Mauser tự động cỡ hai mươi lăm.”
Simon liền thêm vào: “Người Ý khá nóng nảy. Richetti đã dính vào vụ không đâu với một người phục vụ ở Wadi Halfa chỉ vì một chút hiểu lầm về bức điện tín. Ông ta đã khá thô lỗ với Linnet về vụ đó.”
Race liền quay sang cô phục vụ, đó là một người to con dễ nhìn.
“Không có gì từ phía các quý cô, thưa ông. Họ cứ làm nhặng xị lên – trừ bà Allerton, bà rất dễ thương. Không có dấu vết của chuỗi ngọc. Nhân tiện, tôi cũng báo với các ông rằng cô Rosalie Otterbourne có một khẩu súng nhỏ ở trong túi.”
“Loại nào?”
“Thưa ông, loại rất nhỏ, có tay cầm cẩn ngọc trai. Giống như đồ chơi vậy.”
Race trợn tròn mắt thốt: “Quỷ ám vụ này rồi. Tôi tưởng chúng ta đã loại cô ta ra khỏi vòng nghi vấn rồi, vậy mà bây giờ như thế đấy – có phải cô gái nào trên con tàu sóng gió này đều mang theo khẩu súng đồ chơi có tay cầm cẩn ngọc trai như thế không?”
Ông liền hỏi người nữ phục vụ. “Cô ấy có phản ứng gì không khi cô tìm thấy nó?”
Người phụ nữ lắc đầu: “Tôi không cho rằng cô ấy biết đâu. Tôi quay lưng lại khi đang lục soát cái túi.”
“Nhưng Rosalie chắc phải biết cô sẽ thấy nó. Ồ, tôi không hiểu nữa. Còn cô hầu gái thì sao?”
“Chúng tôi đã tìm khắp con tàu, thưa ông, nhưng vẫn không tìm thấy cô ta.”
“Chuyện gì thế này?” Simon thắc mắc.
“Người hầu gái của cô Doyle – Louise Bourget. Cô ta đã biến mất.”
“Biến mất ư?”
Race nghiêm nghị nói: “Cô ta chắc đã lấy cắp chuỗi hạt rồi. Cô ta là người duy nhất có cơ hội quý giá để làm giả nó.”
“Và rồi khi biết sẽ có cuộc tìm kiếm, cô ta đã nhảy xuống sông?” Simon hỏi.
“Vô lý,” Race đáp lại khó chịu. “Một người phụ nữ không thể nhảy xuống sông mà không bị phát hiện giữa ban ngày ban mặt, trên một chiếc thuyền như thế này được. Chắc chắn cô ta còn ở đâu đó trên tàu.” Viên đại tá hỏi lại người nữ phục vụ một lần nữa. “Người ta nhìn thấy cô ta lần cuối khi nào?”
“Khoảng nửa tiếng trước khi chuông báo hiệu bữa trưa, thưa ông.”
Race liền nói: “Dù gì thì chúng ta cũng sẽ đi kiểm tra ca-bin của cô ấy. Nó sẽ cho ta biết điều gì đó.”
Nói rồi ông dẫn đường xuống tầng dưới, Poirot liền đi theo. Họ mở cửa phòng và bước vào trong.
Louise Bourget có nhiệm vụ giữ đồ cho người khác gọn gàng trong lúc việc gọn gàng của bản thân lại có vấn đề. Đồ đạc vứt lung tung trên mặt tủ; một chiếc va-ly đang bị mở tung với quần áo để tung tóe cả trong lẫn ngoài; đồ lót thì được treo hớ hênh trên thành ghế.
Trong lúc Poirot đang nhanh nhẹn mở các hộc tủ, thì Race kiểm tra chiếc va-ly.
Đôi giày của Louise được để ngay bên giường. Một chiếc giày, bằng da màu đen, dường như nằm ở tư thế hơi lạ kì. Sự xuất hiện của nó thật kì lạ đến nỗi thu hút liền sự chú ý của Race.
Ông liền đóng va-ly lại và bước đến gần đôi giày, rồi ông thốt lên.
“Cô ta ở đâu nhỉ?”
Và Race cũng tự trả lời ngay: “Cô ta không biến mất. Cô ta ở đây – ngay dưới gầm giường…”
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile