Never lend books, for no one ever returns them; the only books I have in my library are books that other folks have lent me.

Anatole France

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 189
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18
NDREW PENNINGTON THỂ HIỆN tất cả các phản ứng thường thấy của sự đau buồn và choáng váng. Như thường lệ, ông ăn bận chỉnh tề, nhưng thay bằng một cái cà-vạt đen. Gương mặt dài ngoẵng được cạo sạch sẽ mang nét hoang mang.
Ông buồn rầu nói: “Các ông, vụ này thật sự làm tôi suy sụp! Linnet bé nhỏ – tại sao chứ, các ông có thể tưởng tượng rằng tôi nhớ cô ấy là một đứa trẻ dễ thương nhất. Melhuish Ridgeway cũng rất tự hào về cô ấy! Vâng, không có việc gì liên quan đến chuyện đó. Hãy cho tôi biết tôi có thể làm được gì; đó là những gì tôi muốn hỏi thôi.”
Race nói: “Ông Pennington, để bắt đầu, ông có nghe thấy gì tối hôm qua không?”
“Không, thưa ông, tôi không thể nói tôi có nghe. Ca-bin của tôi nằm ngay bên cạnh phòng số bốn mươi của bác sĩ Bessner – phòng bốn mươi mốt, và tôi có nghe tiếng ồn ào khoảng giữa đêm. Dĩ nhiên lúc đó tôi không biết chuyện gì.”
“Ông không nghe gì khác nửa à? Không nghe tiếng súng nào sao?”
Andrew Pennington lắc đầu.
“Không có.”
“Thế ông đi ngủ lúc mấy giờ?”
“Chắc khoảng sau mười một giờ.”
Ông nghiêng người về phía trước.
“Tôi không cho rằng đây là thông tin với hai ông, có rất nhiều lời đồn đang lan tỏa trên con tàu này. Cái cô lai Pháp – Jacqueline de Bellefort – rất khả nghi, hai ông biết đấy. Linnet không kể cho tôi bất cứ điều gì, nhưng dĩ nhiên là tôi không mù và điếc. Giữa cô ấy và Simon trước đây đã từng có mối quan hệ, lúc nào đó phải không – Tìm kiếm phụ nữ – đó là quy luật nghe khá hay đấy, và tôi muốn nói rằng ông không phải tìm kiếm đâu xa.”
“Ý ông là ông tin Jacqueline de Bellefort đã bắn chết cô Doyle?” Poirot hỏi.
“Tôi cho rằng như vậy. Dĩ nhiên là tôi không biết gì khác…”
“Thật không hay, chúng tôi lại biết một vài thứ!”
Ông Pennington có vẻ giật mình: “Ơ?”
“Chúng tôi biết rằng việc cô de Bellefort bắn cô Doyle khó có thể xảy ra.”
Ông giải thích cặn kẽ tình huống và Pennington tỏ ra vẫn chưa thể chấp nhận điều đó.
“Tôi đồng ý rằng bề ngoài có vẻ ổn – nhưng còn cô y tá này, tôi cược rằng cô ấy đã không thức nguyên đêm. Cô ấy đã ngủ quên và cô kia đã lẻn ra ngoài rồi trở vào lại.”
“Khó có thể như thế lắm, ông Pennington. Hãy nhớ là cô ấy đã được tiêm một liều thuốc ngủ mạnh rồi. Và dù sao đi nữa thì một người y tá thường có thói quen ngủ chập chờn và sẽ thức giấc khi bệnh nhân dậy.”
Nhưng Pennington tuyên bố: “Với tôi, mọi thứ thật mù mờ.”
Race nói với giọng quyền uy nhưng mềm mỏng: “Ông Pennington, tôi nghĩ ông nên tin lời tôi, chúng tôi đã xem xét rất kỹ mọi khả năng rồi. Kết quả khá rõ ràng – Jacqueline de Bellefort không bắn cô Doyle. Cho nên chúng tôi buộc phải nhìn theo hướng khác. Đó là lý do chúng tôi hi vọng ông có thể giúp cho.”
“Tôi ư?” Pennington lo lắng.
“Đúng thế. Ông là người thân cận của người đã mất. Trong mọi tình huống, ông biết những bước ngoặt trong đời cô ấy rõ hơn nhiều so với chồng cô ấy, do anh Doyle chỉ mới quen cô ấy vài tháng. Ví dụ, ông có thể biết ai không ưa cô ấy. Có thể ông biết có ai muốn giết cô ấy.”
Andrew Pennington liếm đôi môi khô khốc của mình.
“Tôi đảm bảo với các ông, tôi không biết gì cả… Mấy ông biết đấy Linnet lớn lên ở Anh. Tôi biết rất ít về những người xung quanh cô ấy.”
Poirot suy tư: “Chưa hết, có người trên tàu này muốn loại bỏ cô Doyle. Và cô ấy đã thoát chết trong gang tấc, ông nhớ chứ, ở tại nơi này, khi hòn đá đó vỡ tan – À! có thể ông không có mặt ở đó?”
“Không. Lúc đó tôi đang ở trong đền. Dĩ nhiên sau này tôi có nghe kể vụ ấy. Đúng là một cú thoát chết trong tích tắc. Nhưng cũng có thể là một tai nạn, ông có nghĩ vậy không?”
Poirot nhún vai.
“Lúc đó người ta có thể nghĩ như thế. Còn bây giờ thì – phải xem xét lại.”
“Đúng – đúng, dĩ nhiên.” Pennington lau mặt với một chiếc khăn tay bằng lụa tốt.
Đại tá Race tiếp: “Anh Doyle tình cờ đề cập đến một người nào đó trên con tàu này có ác cảm với – không phải với cá nhân cô Doyle, mà với gia đình của cô ấy. Ông có biết đó là ai không?”
Pennington hoàn toàn sửng sốt.
“Không, tôi không biết gì cả.”
“Cô ấy không đề cập vấn đề này với ông sao?”
“Không.”
“Ông là một người bạn tín cẩn của cha cô ấy – ông không thể nhớ vụ làm ăn nào của ông ấy có thể làm đối thủ nào phá sản ư?”
Pennington lắc đầu không nhớ. “Không có vụ nào điển hình cả. Những việc như vậy xảy ra thường xuyên mà, dĩ nhiên, nhưng tôi không thế nhớ ai đã công khai đưa ra lời đe dọa – không có ai.”
“Ông Pennington, tóm lại ông không thể giúp chúng tôi phải không?”
“Chắc là vậy. Các ông, tôi lấy làm tiếc cho sự thiếu sót này.”
Race nhìn Poirot rồi nói: “Tôi cũng rất tiếc. Chúng tôi đã hi vọng.”
Rồi ông đứng dậy như một cách ra hiệu rằng buổi thẩm vấn kết thúc.
Andrew Pennington nói: “Khi Doyle tỉnh lại, tôi nghĩ anh ấy sẽ gọi tôi coi các thứ. Xin lỗi, ông Đại tá, nhưng chính xác thì ông sắp xếp lịch trình như thế nào đây?”
“Khi rời khỏi đây, chúng ta sẽ đi một mạch tới Shellal, và sẽ tới đó vào sáng mai.”
“Thế còn cái xác?”
“Sẽ được chuyển đến một phòng trữ lạnh.”
Andrew Pennington cúi đầu chào rồi rời khỏi phòng.
Poirot và Race lại nhìn nhau lần nữa.
Vừa đốt thuốc, Race nói: “Ông Pennington không được thoải mái.”
Poirot gật đầu: “Và Pennington thật sự rối trí, ông ta đã nói dối một cách ngu ngốc, ông Pennington không hề có mặt tại đền Abu Simbel khi tảng đá rơi xuống. Tôi – tôi nói cho anh nghe – có thể đoan chắc như thế. Vì tôi từ chỗ đó về mà.”
Race nói: “Đúng là một lời nói dối ngu ngốc, và lộ liễu.”
Poirot lại gật đầu, cười và nói: “Nhưng lúc này, chúng ta sẽ xử lý ông ta dễ dàng thôi, phải không?”
Race tán thành: “Ý kiến đó được đấy.”
“Bạn của tôi, anh và tôi thật hiểu ý nhau.”
Hốt nhiên, dưới chân họ chợt có tiếng chuyển động kèn kẹt. Con tàu Karnak đang trên đường trở về Shellal.
Race nói tiếp: “Chuỗi ngọc trai. Đó là vấn đề tiếp theo cần phải làm rõ.”
“Anh có kế hoạch gì chưa?”
“Có.” Rồi ông nhìn đồng hồ. “Khoảng nửa tiếng nữa là đến giờ ăn trưa. Đến cuối bữa ăn tôi sẽ đưa ra một thông báo – chỉ nói rằng chuỗi ngọc trai đã bị đánh cắp, và tôi yêu cầu mọi người ở lại phòng ăn để thực hiện việc tìm kiếm.”
Poirot gật đầu tán thành.
“Điều này cũng dễ hình dung thôi. Người nào lấy chuỗi hạt sẽ vẫn còn giữ nó. Do không được thông báo trước, thủ phạm sẽ không có cơ hội quẳng nó xuống nước trong cơn hoảng loạn.”
Race đưa ra mấy tờ giấy và lắp bắp: “Tôi chỉ muốn tóm tắt sơ lược về các sự kiện tôi lướt qua, để cho khỏi rối trí đó mà.”
“Anh làm tốt quá. Phương pháp và trình tự, đó là mấu chốt của mọi việc,” Poirot trả lời.
Race viết thêm vài chi tiết vào tờ giấy nhỏ gọn một lúc. Cuối cùng ông đưa kết quả về phía Poirot.
“Có điểm nào anh không đồng ý không?”
Poirot cầm các tờ giấy lên và bắt đầu đọc:
VỤ GIẾT CÔ LINNET DOYLE
Cô Doyle được nhìn thấy còn sống lần cuối bởi cô hầu gái Louise Bourget. Thời gian: khoảng 11:30.
Từ 11:30 – 12:20 những người sau đây có bằng chứng ngoại phạm: Comelia Robson, Jim Fanthorp, Simon Doyle, Jacqueline de Bellefort – không ai khác – nhưng tội ác chắc chắn được thực hiện sau khoảng thời gian này, và có vẻ như bởi khẩu súng của Jacqueline de Bellefort, khẩu súng nằm trong túi của cô ấy. Việc khẩu súng của cô Jacqueline de Bellefort có được sử dụng trong vụ án này hay không hoàn toàn không xác định được cho đến lúc xét nghiệm tử thi và có bằng chứng chuyên môn về vết đạn – có thể mất thời gian.
Dự đoán diễn tiến vụ án: X (kẻ giết người) chứng kiến cảnh Jacqueline và Simon Doyle ở phòng quan sát và biết khẩu súng nằm dưới ghế dài. Sau khi phòng lớn không còn người, X nhặt lấy khẩu súng – anh ta hay cô ta muốn qui tội giết người cho Jacqueline. Theo giả thuyết này, một số người lập tức được loại khỏi vòng nghi vấn:
Cornelia Robson: cô không có cơ hội để lấy khẩu súng trước khi Jim Fanthorp quay trở lại kiếm nó.
Cô Bowers – tương tự.
Bác sĩ Bessner – tương tự.
Ghi chú: Fanthorp không hẳn nằm ngoài vòng nghi vấn, vì anh ta có thể đã lấy khẩu súng dù một mực cho rằng không tìm thấy nó.
Những người còn lại đều có khả năng lấy khẩu súng trong khoảng thời gian mười phút đó.
Những động cơ có thể có cho vụ giết người:
Andrew Pennington: Giả định rằng ông đã có những việc làm sai trái, có một bằng chứng nghiêng về giả thiết này, nhưng chưa đủ để có thể cáo buộc ông ta. Nếu Pennington chính là người đẩy hòn đá xuống, ông ta là người biết nắm bắt cơ hội. Tội ác rõ ràng đã không được tính toán kỹ từ trước. Việc bắn tối hôm qua là một cơ hội lý tưởng.
Những phản biện cho giả thuyết này: tại sao ông ta lại ném khẩu súng xuống nước, đây chính là chứng cứ có giá trị chống lại J.B?
Fleetwood: Trả thù. Fleetwood bị Linnet Doyle làm tổn thương. Có thể đã nghe lỏm được câu chuyện và vị trí của khẩu súng. Anh ta lấy khẩu súng, bởi vì khẩu súng nhỏ gọn, hơn là việc đổ tội cho Jacqueline. Nó cũng hợp với việc ném súng xuống sông. Nếu điều đó đúng, tại sao anh ta lại viết chữ J bằng máu lên tường?
Ghi chú: Chiếc khăn tay rẻ tiền được tìm thấy cùng với khẩu súng có vẻ thuộc về người như Fleetwood hơn là những hành khách đàng hoàng khác.
Rosalie Otterbourne: Chấp nhận bằng chứng của bà Van Schuyler hay là lời chối bỏ của Rosalie? Ở thời điểm đó có một vật được ném xuống nước và giả định là khẩu súng được bọc trong khăn nhung màu tím.
Những điểm cần lưu ý. Rosalie thật sự có động cơ không? Có thể cô ta không ưa Linnet Doyle và thậm chí còn ganh tị với cô ấy – nhưng để là động cơ giết người thì còn chưa đủ. Bằng chứng chống lại Rosalie chỉ có thể thuyết phục nếu tìm ra được động cơ đầy đủ. Như đã biết, không có mối liên hệ nào trước đây giữa Rosalie Otterbourne và Linnet Doyle.
Bà Van Schuyler: Miếng vải nhung quấn quanh khẩu súng là của bà Van Schuyler. Theo lời khai của bà, lần cuối bà thấy nó là ở trong phòng quan sát. Bà phát hiện mất tấm khăn vào buổi tối, đã tìm kiếm nhưng không thành công.
Làm cách nào mà X có trong tay miếng vải nhung? Có phải X đã lấy trộm nó vào đầu giờ tối? Nhưng nếu như vậy, thì tại sao? Không ai có thể nói trước điều gì sẽ diễn ra như cảnh giữa Jacqueline và Simon. Có phải X đã thấy miếng vải đó trong phòng lớn khi đến lấy khẩu súng từ dưới ghế? Nhưng nếu như vậy, tại sao mọi người lại không thấy khi tìm kiếm? Phải chăng tấm khăn chưa bao giờ rời khỏi tay bà Van Schuyler? Điều đó có nghĩa là: bà Van Schuyler đã giết Linnet Doyle? Có phải lời buộc tội của bà dành cho Rosalie Otterbourne là một lời nói dối có chủ ý? Nếu bà giết cô ấy thì với động cơ gì?
Những khả nâng khác:
Động cơ ăn trộm: Có thể, vì chuỗi ngọc trai đã biến mất, và chắc chắn rằng Linnet Doyle đã đeo nó tối hôm qua.
Người có mối ác cám với gia đình Ridgeway: Có thể – nhưng không có bằng chứng.
Hiện trên tàu có một người nguy hiểm – một tên giết người. Một tên giết người và một xác chết. Hai điều này có thể không liên hệ gì với nhau? Cần biết rằng Linnet Doyle biết những thông tin nguy hiểm về người đàn ông này.
Kết luận: Có thể nhóm những người trên tàu thành hai nhóm – nhóm một là những người có động cơ hoặc có bằng chứng kết tội rõ ràng, và nhóm hai là những người mà đến giờ vẫn nằm ngoài vòng nghi vấn.
Nhóm I: Andrew Pennington, Fleetwood Rosalie, Otterboume, Bà Van Schuyler Louise Bourget (Ăn cắp?), Ferguson (Chính trị?)
Nhóm II: Bà Allerton, Tim Allerton, Comelia Robson, Cô Bowers, Bác sĩ Bessner, Ngài Richetti, Bà Otterboume, Jim Fanthorp
Poirot trả lại tờ giấy, nhận định: “Những gì anh viết rất, rất chính xác.”
“Anh đồng ý phải không?”
“Đúng thế.”
“Còn phần bổ sung của anh là gì?”
Poirot trở nên nghiêm trọng.
“Tôi hả, chỉ tự hỏi mình một câu: ‘Tại sao khẩu súng lại được ném xuống nước?’”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Ở thời điểm này thì đúng thế. Chỉ đến khi nào tôi có được câu trả lời rõ ràng thì thôi, còn không thì mọi thứ đều vô nghĩa. Như vậy – đó phải là điểm bắt đầu. Anh bạn của tôi ơi, anh sẽ nhận ra rằng trong bảng tóm tắt của mình, anh chưa trả lời được điểm đó.”
Race nhún vai.
“Thật tệ.”
Poirot lắc đầu bối rối. Ông cầm chiếc khăn màu tím sũng nước lên và vuốt thẳng nó ra trên bàn. Ngón tay ông rà theo những vết cháy xém và lỗ thủng.
Ông bất ngờ hỏi: “Anh bạn, cho tôi biết chuyện này nhé. Anh là người thạo về súng hơn tôi. Có thể nào một vật như thế này, quấn quanh khẩu súng, thì giảm thanh được không?”
“Không, không thể nào. Không giống bộ giảm thanh được đâu.”
Poirot gật đầu và tiếp tục: “Một người đàn ông – chắc chắn một người đàn ông có nhiều kinh nghiệm về súng ống – đều biết điều đó. Nhưng một phụ nữ – phụ nữ thì không biết đâu.”
Race tò mò nhìn ông: “Có lẽ là thế thật.”
“Không. Cô ấy chắc hẳn đã đọc truyện trinh thám, trong đó không chính xác lắm so với thực tế.”
Race gõ nhẹ ngón tay vào khấu súng nhỏ được cẩn ngọc trai, thốt lên: “Dù gì anh bạn nhỏ này cũng không gây ra nhiều tiếng động đâu. Chỉ một tiếng tách, thế thôi. Hòa với tiếng động khác xung quanh, dám chắc anh không thể nhận ra đâu.”
“Đúng, tôi đã suy nghĩ đến chuyện đó.”
Poirot cầm chiếc khăn tay lên và kiểm tra.
“Một chiếc khăn tay của một người đàn ông – nhưng không phải là quý ông. Tôi nghĩ phải là loại Woolworth đắt tiền kìa. Còn cái này, tối đa là ba xu.”
“Đây là loại khăn tay mà một người đàn ông như Fleetwood có thể sở hữu.”
“Đúng. Tôi để ý thấy Andrew Pennington có một chiếc khăn tay bằng lụa rất tốt.”
Race đề nghị: “Ferguson thì sao?”
“Có thể lắm. Từ một hành động thôi. Nhưng như thế thì nó phải là khăn lớn mới được.”
“Tôi cho rằng việc dùng khăn tay thay vì khăn lớn là để cầm súng và tránh để lại dấu vân tay thôi,” Race nói thêm với một chút bông đùa. “‘Bằng chứng là chiếc khăn tay có màu hường.’”
“À, đúng thế. Có vẻ là màu của các cô gái trẻ nhỉ?” Viên thám tử đặt miếng vải nhung xuống rồi lại kiểm tra vết thuốc súng trên đó lần nữa, ông lầm bầm: “Dù sao thì cũng thật lạ…”
“Cái gì thế?”
Poirot nhẹ nhàng đáp: “Cô Linnet Doyle tội nghiệp. Nằm ngủ thật yên bình… với một cái lỗ nhỏ trên đầu. Anh nhớ trông cô ấy như thế nào không?”
Race nhìn ông tò mò và nói: “Anh biết đấy, tôi nghĩ là anh cố gắng cho tôi biết chuyện gì đó – nhưng tôi thật sự không đoán ra được ý tứ của anh.”
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile