Đừng lo ngại cuộc sống sẽ kết thúc, hãy lo ngại cuộc sống chẳng bao giờ bắt đầu.

Grace Hansen

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 186
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
HIẾC TÀU HƠI NƯỚC cập bến vào sáng sớm hôm san tại Ez-Zebua. Cornelia Robson, với gương mặt cười rạng rỡ và cái mũ rộng vành trên đầu, là một trong những người đầu tiên hối hả lên bờ. Cornelia không phải là kẻ lạnh nhạt với mọi người, mà trái lại, là một người dễ mến và chấp nhận mọi tính khí của người đi cùng.
Bóng dáng của Hercule Poirot trong bộ đồ trắng, áo sơ-mi hồng, cái cà-vạt to đen và chiếc mũ tây trắng không làm cho cô nhăn nhó khó chịu như bà Van Schuyler quý tộc kia tự tin thể hiện. Khi họ cùng bước lên con đường của những pho tượng nhân sư, cô nhanh nhẹn đáp lại lời chào hỏi của ông: “Những người cùng đi với cô không lên bờ để xem ngôi đền sao?”
“Vâng, ông thấy đấy, dì Marie – hay là bà Van Schuyler – không bao giờ dậy sớm cả. Dì rất rất cẩn thận với sức khỏe của mình. Và dĩ nhiên là dì muốn cô Bowers, y tá riêng của dì, làm vài việc cho mình. Và dì cũng nói đó không phải là một trong những ngôi đền hay nhất – nhưng dì lại tốt bụng khi cho rằng tôi có thể tham quan.”
Poirot đáp khô khốc: “Bà ấy tốt quá.”
Cornelia khéo léo đồng ý một cách không nghi ngờ.
“Ồ, dì ấy tốt lắm. Dì thật tốt khi cho tôi cùng đi chuyến này. Tôi thấy mình là cô gái may mắn. Tôi thật không thể tin được khi dì đề nghị với mẹ tôi cho đi cùng.”
“Và cô đang hưởng thụ chuyến đi… phải không?”
“Ồ, chuyến đi thật là tuyệt! Tôi đã đến Ý – Venice, Padua và Pisa – rồi Cairo – chỉ là dì Marie không được khỏe lắm ở Cairo này nên tôi không thể đi đâu nhiều; và bây giờ là chuyến đi tuyệt vời đến Wadi Halfa.”
Poirot mỉm cười: “Bản tính cô thật vui vẻ, thưa cô.”
Từ Cornelia, ông chuyển điểm nhìn sang Rosalie cau có đang đi phía trước.
Nhìn theo ông, Cornelia hỏi: “Cô ấy trông dễ thương, phải không ông? Chỉ có cái nhìn là khinh thường thôi. Dĩ nhiên thôi, cô ấy là người Anh mà. Cô ấy không dễ thương bằng cô Doyle. Tôi nghĩ cô Doyle là người dễ mến nhất, người phụ nữ thanh lịch nhất mà tôi từng gặp! Còn chồng cô ấy chỉ biết tôn thờ có cô ấy mà thôi, phải không? Tôi nghĩ người tóc nâu kia thuộc típ người rất dễ nhận biết? Bà ấy có họ hàng với một Nam tước, tôi nghĩ vậy. Bà nói về ông ấy với chúng tôi suốt tối hôm qua, thế nhưng lại chẳng đề cập gì đến tước vị của mình hết.”
Cô bập bẹ hỏi thăm cho đến khi người thông dịch đến đề nghị đoàn dừng lại và giới thiệu một hơi: “Ngôi đền này được xây lên nhằm tôn vinh vị thần Ai Cập Amun và thần mặt trời Re-Harakhte… với linh vật là đầu đại bàng…”
Tay thông dịch cứ tiếp tục với giọng đều đều. Bác sĩ Bessner với quyển hướng dẫn trong tay, tự lầm bầm với mình bằng tiếng Đức. Ông thích văn bản hơn.
Tim Allerton không tham gia với đoàn tham quan. Còn mẹ của anh đang cố bắt chuyện làm quen với anh Fanthorp bảo thủ. Trong khi đó, Andrew Pennington khoác tay Linnet Doyle đang chăm chú lắng nghe, dường như rất thích thú với con số người hướng dẫn viên đưa ra.
“Thật thế sao, cao gần hai mươi mét à? Đối với tôi trông có vẻ thấp hơn thế. Vị vua này thật vĩ đại. Đây là một bằng chứng sống động về văn hóa của Ai Cập.”
“Một doanh nhân vĩ đại chứ, chú Andrew.”
Andrew Pennington nhìn cô trìu mến.
“Sáng nay trông cháu thật tươi tỉnh, Linnet. Chú dạo này lo lắng cho cháu đó, trông cháu có vẻ xanh xao quá.”
Cả đoàn vừa quay lại về tàu vừa nói chuyện rôm rả. Chiếc Karnak lại dong buồm tiếp tục cuộc hành trình. Cảnh trí bây giờ đã bớt khắc nghiệt hơn. Những đồi cọ, những cánh đồng đang được khai khẩn dần hiện ra.
Mặc dù sự thay đổi cảnh vật đã giải tỏa phần nào sự ức chế khó nói của mọi người nhưng nó vẫn còn làm cho họ lo nghĩ. Tim Allerton đã vượt qua được sự buồn tẻ của mình. Rosalie trông bớt u sầu hơn. Linnet thì có vẻ như đã trút được gánh nặng khỏi tim.
Pennington nói với cô: “Thật là không phải lúc khi nói chuyện kinh doanh với một cô dâu đang trong kì trăng mật của mình, nhưng cũng có vài việc…”
“Dĩ nhiên rồi, mà sao hả chú Andrew.” Linnet lại nổi máu nghề nghiệp. “Dĩ nhiên là cuộc hôn nhân của cháu có tạo ra một sự thay đổi.”
“Chỉ có việc đó thôi. Đôi lúc chú muốn nhờ cháu ký một vài giấy tờ.”
“Thế tại sao không phải là bây giờ, chú?”
Andrew Pennington liếc nhìn xung quanh. Góc họ ngồi trong phòng lớn khá trống trải. Hầu hết mọi người đang ở mé ngoài, ngay giữa phòng và các ca-bin. Những người trong buồng quan sát này chỉ còn Ferguson – đang vừa huýt sáo vừa ngồi uống bia ở một cái bàn nhỏ giữa phòng, đôi chân ở phía trước mặt chìa ra khỏi ống quần nỉ dơ dáy, ông Hercule Poirot ngồi ngay trước Ferguson, và bà Van Schuyler, đang ngồi ở một góc đọc một cuốn sách về Ai Cập.
Andrew Pennington đáp: “Được thôi.” và ông rời khỏi phòng.
Linnet và Simon nhìn nhau cười – một nụ cười nở chậm phải mất vài phút mới hiển hiện được hết cỡ.
Anh hỏi: “Mọi việc ổn cả chứ, em yêu?”
“Vâng, vẫn ổn anh à… Thật vui vì không biết cách nào mà em hết ngạc nhiên rồi.”
Simon đáp chắc nịch: “Em thật tuyệt vời.”
Pennington quay lại và mang theo một xấp giấy tờ.
Linnet mở lời: “Cám ơn chú. Cháu có phải ký hết mớ giấy tờ này không?”
Andrew Pennington tỏ ra có lỗi.
“Chú biết, như thế thật khó cho cháu, nhưng chú chỉ muốn mọi việc của cháu được sắp xếp ổn thỏa thôi. Đầu tiên là việc cho thuê bất động sản trên Đại lộ số Năm…, rồi ở Western Land Concessions…” ông tiếp tục nói, vừa lấy vừa sắp xếp giấy tờ. Simon mệt mỏi ngáp.
Cửa khoang chợt mở tung ra và Fanthorp bước vào. Anh đảo mắt khắp lượt một nhìn xung quanh, rồi bước tới đứng cạnh Poirot đang nhìn ra mặt nước xanh thẫm và những dải cát vàng…
“… Cháu ký chỗ này.” Pennington kết luận, để tờ giấy trước mặt Linnet và chỉ vào chỗ trống ký tên.
Linnet cầm tờ giấy lên xem, lật lại về trang đầu, đoạn cầm đến cây viết mà Pennington đã đặt sẵn bên cạnh, và ký tên mình: Linnet Doyle…
Pennington cất tờ giấy và lôi ra một tờ khác.
Fanthorp vẫn luẩn quẩn quanh chỗ họ. Qua cửa sổ bên hông tàu, dường như có một vật gì đấy bên bờ sông đang lướt qua khiến cho anh thích thú.
Pennington nói tiếp: “Cái đó chỉ là phần chuyển đổi. Cháu không cần đọc đâu.”
Nhưng Linnet vẫn liếc mắt qua. Pennington đặt tờ giấy thứ ba xuống và Linnet đọc nó một cách cẩn thận.
Andrew tiếp: “Mọi thứ đều khá rõ ràng. Không có gì hay ho cả. Chỉ diễn giải dưới góc độ pháp lý thôi.”
Simon lại ngáp tiếp.
“Cháu yêu, không phải là cháu định đọc hết đấy chứ? Thế thì cháu sẽ ngồi đến cả buổi trưa và hơn thế nữa đấy.”
Linnet đáp: “Cháu luôn đọc mọi thứ mà. Cha đã dạy cháu như thế. Ông nói có thể sót mấy lỗi đánh máy.”
Pennington cười có phần gượng gạo.
“Linnet, cháu đúng là con người của kinh doanh.”
Simon cười đáp: “Cô ấy tận tâm hơn cả cháu ấy chứ. Cháu chưa bao giờ đọc một tài liệu luật nào trong đời cả. Cháu chỉ biết ký vào chỗ người ta bảo ký ở đường chấm chấm thôi, và chỉ có thế.”
“Như thế thật là cẩu thả.” Linnet không đồng tình.
“Anh không có đầu óc kinh doanh mà.” Simon vui vẻ thú nhận. “Chưa từng có. Người nào kêu anh ký – thì anh ký. Đó là cách đơn giản nhất.”
Andrew Pennington chú mục vào anh. Rồi ông vểnh môi hỏi một cách khô khốc: “Đôi lúc có vẻ nguy hiểm, phải không ông Doyle?”
Simon liền đáp: “Vớ vẩn. Tôi không phải là loại người cho rằng cả thế giới sẽ hại một người nào đó. Tôi là người có thể tin cậy – và ông biết đấy, tôi được đền đáp xứng đáng. Tôi ít khi bị xuống tinh thần lắm.”
Trong sự ngạc nhiên của mọi người, Fanthorp im lặng kia bất ngờ quay lại nhìn về phía Linnet.
“Tôi hi vọng tôi không phải là loại chõ mũi vào chuyện của người khác, nhưng cô phải để tôi nói rằng tôi rất ngưỡng mộ khả năng kinh doanh của cô. Trong nghề của tôi… ơ… tôi là luật sư… thật buồn là tôi thường thấy các quý cô không có đầu óc kinh doanh. Không bao giờ ký giấy tờ khi không đọc qua nó thật đáng khâm phục… quả thật đáng khâm phục.” Anh hơi cúi người, rồi thoáng đỏ mặt, anh lại quay đi, tiếp tục ngoạn cảnh bên bờ sông Nile.
Linnet có vẻ bối rối: “Ơ, cám on anh…” Rồi cô cắn chặt môi để kìm tiếng cười khúc khích. Chàng thanh niên có vẻ trông nghiêm trang một cách khác lạ.
Andrew Pennington thì tỏ vẻ khó chịu thật sự.
Simon Doyle không rõ là đang khó chịu hay vui thích nữa. Tai của Fanthorp đỏ tía lên.
Linnet cười nói với Pennington: “Tiếp đi chú.”
Nhưng Pennington có vẻ hơi bối rối.
“Chú nghĩ có lẽ lúc khác sẽ tốt hơn,” ông nói một cách kiên quyết. “À, như anh Doyle đã nói, nếu cháu phải đọc hết mọi thứ, chúng ta sẽ ở đây đến tận giờ trưa đấy. Chúng ta không thể bỏ qua cơ hội ngắm cảnh được. Dù sao đi nữa thì hai văn bản đầu tiên là những thứ khẩn thiết. Chúng ta sẽ giải quyết việc kinh doanh sau.”
Linnet thốt lên: “Ở đây nóng quá. Chúng ta hãy ra ngoài đi.” Rồi ba người đi qua chiếc cửa xoay. Hercule Poirot liền ngoái đầu lại. Ông quan sát kỹ lưng của Fanthorp; rồi đưa mắt qua cái dáng dài thượt của Ferguson đang ngửa đầu ra sau và huýt sáo khe khẽ.
Cuối cùng, Poirot nhìn qua phía góc phải, nơi bà Van Schuyler ngồi. Bà Van Schuyler đang chằm chằm nhìn Ferguson.
Chiếc cửa xoay lại mở và Cornelia ào vào.
Bà già chụp liền: “Lâu thế. Cháu đã đi đâu vậy?”
“Cháu xin lỗi, dì Marie. Len không ở chỗ dì nói. Nó ở cái túi khác…”
“Cháu yêu, đúng là cháu hoàn toàn không thể tìm được thứ gì hết! Dì biết, cháu nhiệt tình, nhưng cháu phải cố thông minh và nhanh nhẹn hơn. Phải tập trung vào.”
“Cháu xin lỗi, dì Maire. Cháu e rằng cháu rất tối dạ.”
“Cháu yêu, không ai tối dạ cả nếu họ cố gắng. Dì đã cho cháu đi cùng chuyến này, và ngược lại dì mong một ít sự chú tâm.”
Cornelia đỏ mặt.
“Cháu rất xin lỗi, dì Marie.”
“Còn cô Bowers đâu rồi? Đã quá mười phút giờ dì phải nhỏ thuốc rồi. Nhanh đi tìm cô ấy đi. Bác sĩ nói việc này rất quan trọng…”
Ngay lúc đó cô Bowers bước vào, mang theo một ly thuốc nhỏ.
“Thuốc của bà đây, bà Van Schuyler.”
“Đáng lẽ tôi phải có nó lúc mười một giờ chứ.” Bà già nạt lại. “Nếu có một thứ tôi ghét thì tôi cho rằng đó là sự không đúng giờ.”
Cô Bowers đáp: “Thật sao.” Rồi cô nhìn đồng hồ của mình. “Chính xác nửa phút nữa mới tới mười một giờ.”
“Đồng hồ của tôi là mười một giờ mười phút.”
“Tôi nghĩ bà sẽ thấy đồng hồ của tôi chạy đúng. Nó chạy rất chính xác. Không bao giờ sai lệch một chút nào.” Cô Bowers vẫn khá điềm tĩnh.
Bà Van Schuyler uống đánh ực mọi thứ trong ly thuốc. Rồi bà tiếp: “Tôi cảm thấy còn tệ hơn.”
“Tôi rất tiếc khi nghe vậy, thưa bà Van Schuyler.”
Cô Bowers không có vẻ thông cảm mà chỉ là không có hứng thú. Hẳn nhiên là cô đã trả lời một cách máy móc.
Bà Van Schuyler lại tiếp: “Ở đây nóng quá. Cô Bowers, tìm cho tôi chiếc ghế trên khoang đi. Cornelia, mang đồ đan lại đây. Đừng có vụng về mà làm rơi nó đấy. Kẻo dì sẽ bảo cháu ngồi quấn len lại.”
Cuộc trò chuyện kết thúc.
Ferguson thở dài, khẽ lắc cổ chân và nói to: “Trời, tôi muốn vặn họng con mụ đó quá.”
Poirot thích thú hỏi: “Anh không thích loại người đó sao?”
“Không thích sao? Tôi phải nói là ghét cay ghét đắng mới phải. Không biết đã bao giờ mụ đàn bà đó tốt với ai chưa? Mụ ta không bao giờ đụng một ngón tay làm việc gì. Mụ chỉ chỉ tay năm ngón mà thôi. Mụ là kẻ quen ăn sẵn – một kẻ ăn sẵn khó chịu. Tôi có thể nói rằng trên chiếc tàu này có nhiều người mà sự hiện diện của họ chả ảnh hưởng gì đến hành tinh này.”
“Thật sao?”
“Đúng. Như cái cô vừa mới ở đây đó, chỉ ký chuyển nhượng cổ phần và tung ra sức mạnh của mình. Hàng trăm hàng ngàn công nhân khốn khổ đang làm cực nhọc để có một ít tiền công, còn để cho cô ấy hưởng thụ trên đống vàng. Một trong những người phụ nữ giàu nhất nước Anh, có ai đó đã nói với tôi như vậy – vậy mà chưa bao giờ ngửa tay bố thí lấy một lần trong đời.”
“Ai nói với anh rằng cô ấy là một trong những phụ nữ giàu nhất nước Anh?”
Ferguson đưa ánh mắt sắc lẹm nhìn ông.
“Một người đàn ông mà ông không biết đâu! Một người đàn ông làm việc bằng chính đôi tay của mình và không hề xấu hổ về điều đó! Không phải là người chải chuốt, kiêu căng rỗi hơi.”
Mắt anh liếc nhìn không mấy thiện cảm về chiếc nơ cổ và cái áo sơ-mi hồng.
“Tôi à, tôi làm việc bằng chính trí óc của mình và tôi cũng không có gì phải xấu hổ về việc đó,” Poirot đáp lại ánh nhìn đó.
Ferguson khịt khịt mũi rồi nói thêm.
“Phải bắn bỏ hết bọn đó!”
Poirot đáp: “Chàng thanh niên trẻ tuổi thân mến, anh thật khoái những vụ bạo lực nhỉ.”
“Thế ông có thể cho tôi biết việc nào giải quyết được mà không nhờ đến nó không? Ông phải đập bỏ trước khi ông xây lên chứ.”
“Dĩ nhiên như vậy sẽ dễ dàng hơn, ồn ào hơn và đẹp mắt hơn.”
“Ông làm nghề gì? Tôi dám chắc là không có nghề gì cả. Có thể tự cho mình là người đàn ông thường thường bậc trung thôi chứ gì.”
“Tôi không phải là một người đàn ông tầm thường. Tôi là một người đàn ông đích thực.” Hercule tuyên bố với một chút gay gắt.
“Ông là ai chứ?”
“Tôi là thám tử,” Hercule Poirot đáp với cung cách khiêm tốn nhất có thể. “Tôi là một ông vua.”
“Chúa lòng lành!” Người thanh niên có vẻ nhún nhường nghiêm túc. “Ông có cho rằng cô gái đó thật ra đã vớ phải một thằng khốn? Cô ấy có cẩn thận như đối với làn da quý giá của mình không?”
Poirot lập tức đáp: “Tôi không có liên quan gì với vợ chồng nhà Doyle. Tôi đang đi nghỉ.”
“Tận hưởng một kì nghỉ à?”
“Còn anh? Không phải là anh cũng đang đi nghỉ sao?”
“Đi nghỉ!” Ferguson thở hắt ra. Rồi anh thêm vào một cách bí hiểm. “Tôi đang xem xét các điều kiện đây.”
“Rất thú vị đấy.” Poirot lầm bầm và nhẹ nhàng đi ra ngoài lên khoang tàu.
Bà Van Schuyler đã yên vị ở góc đẹp nhất. Còn Cornelia thì ngồi trên gối, đưa cuộn len xám cho bà bằng cả hai tay. Cô Bowers thì ngồi đọc tờ Saturday Evening Post.
Poirot khẽ khàng tiến về trước, bước xuống khoang bên mạn phải. Khi ông đi ra phía sau con tàu, ông tình cờ gặp một người phụ nữ vừa quay gương mặt ngạc nhiên qua ông – một gương mặt Latin đen đúa, đầy sự cay độc. Cô gọn gàng trong bộ đồ màu đen và đang đứng nói chuyện với một người đàn ông to con mặc đồng phục – qua dáng vẻ của anh ta thì đó là một trong những thợ máy trên tàu. Trên cả hai gương mặt là sự biểu hiện của – tội lỗi và cảnh giác. Poirot tự hỏi không biết họ đang nói về vấn đề gì.
Viên thám tử đi vòng ra sau và tiếp tục bước dọc theo mạn bên trái. Một cánh cửa ca-bin mở ra và bà Otterbourne, trong chiếc đầm sa-tanh màu tím, bước ra và gần như ngã vào vòng tay ông.
Bà cất tiếng: “Xin lỗi nhé. Ông Poirot thân mến – thật xin lỗi. Ông biết đấy, tôi vấp thôi – chỉ là một cú vấp. Tôi chưa bao giờ có chân đi trên biển cả. Nếu con tàu có thể đứng yên…” Bà choàng lấy tay ông. “Con tàu cứ trồi hụp khiến tôi không thể đứng được… Thực sự chưa bao giờ tôi thích ở trên biển cả… Chỉ có một thân một mình ở đây hết giờ này qua giờ khác. Đứa con gái của tôi – không có sự cảm thông – không hiểu bà mẹ già tội nghiệp của nó, người mẹ đã làm mọi thứ cho nó…” Bà Otterbourne bắt đầu rỏ nước mắt. “Tôi đã cực khổ vì nó… thương nó biết chừng nào… đến biết chừng nào. Một tình yêu bao la vô bờ bến… đó là những gì tôi đã làm… một tình yêu to lớn… hy sinh mọi thứ… mọi thứ… Mà không ai thèm đếm xỉa tới tôi! Nhưng tôi sẽ nói cho mọi người biết – tôi sẽ kể cho họ nghe ngay bây giờ – nó đã bỏ rơi tôi như thế nào – nó khó chịu như thế nào – bắt tôi đi chuyến này – chán đến chết đi được… Tôi sẽ đi và kể cho họ nghe ngay bây giờ…”
Bà muốn sụp xuống nhưng Poirot nhẹ nhàng đỡ bà dậy.
“Tôi sẽ mang cô ấy về, thưa bà. Hãy vào lại ca-bin. Đây chính là cách tốt nhất…”
“Không. Tôi muốn đi kể cho mọi người… mọi người ở trên con tàu này…”
“Nguy hiểm lắm, thưa bà. Biển đang động. Bà có thể trượt ngã trên tàu đấy.”
Bà Otterbourne nghi ngờ nhìn ông.
“Ông nghĩ thế à. Ông thật nghĩ như vậy sao?”
“Đúng thế.”
Ông đã thành công. Bà Otterbourne khoát tay, run run bước vào lại ca-bin.
Poirot bỗng nhảy mũi một, hai cái rồi ông gật đầu và bước tiếp đến chỗ Rosalie Otterbourne đang ngồi giữa bà Allerton và Tim.
“Mẹ cô muốn gặp cô đấy.”
Đang cười sảng khoái, cô gái bỗng sa sầm nét mặt. Cô thoắt nhìn ông nghi ngờ và hối hả hướng về phía khoang tàu.
Bà Allerton thốt lên: “Tôi không thể nói chuyện được gì con bé. Nó thất thường quá. Khi này thì nó vui vẻ; lúc khác thì lại cộc cằn.”
Tim tiếp: “Thật là hư và nóng nảy.”
Bà Allerton lắc đầu: “Không. Mẹ không nghĩ như vậy. Mẹ nghĩ nó không vui thôi.”
Tim nhún vai.
“Ồ, phải, con cho rằng tất cả chúng ta, ai cũng đều có những nỗi khổ riêng cả.” Giọng của Tim phảng phất nét khó chịu và lỗ mãng.
Bất chợt, một âm thanh lớn vang lên.
Bà Allerton thét lên đầy vui sướng: “Đến giờ trưa rồi. Mẹ đang đói đây.”
Tối hôm đó, Poirot thấy bà Allerton ngồi nói chuyện với bà Van Schuyler. Khi ông đi ngang qua, bà Allerton nháy mắt và nói: “Dĩ nhiên là tại lâu đài Calfries rồi – ngài Nam tước đáng mến đó…”
Cornelia thì đã thoát ra ngoài khoang tàu. Cô đang hờ hững nghe bác sĩ Bessner hướng dẫn về những gì cao siêu liên quan đến cổ vật học Ai Cập bị tiêu hủy, được ghi lại trong những trang sách của Baedeker.
Còn Tim Allerton thì đứng tựa người vào thành tàu, nhận định: “Dù gì đi nữa, đây cũng là một thế giới thối nát…”
Rosalie Otterbourne hùa theo: “Thật không công bằng, một số người có tất cả mọi thứ.”
Poirot thở dài và lấy làm mừng khi mình không còn trẻ nữa.
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile