Trong mỗi khó khăn đều ẩn chứa một cơ hội.

Albert Einstein

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 189
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1
INNET RIDGEWAY KÌA!”
“Chính là cô ấy!” Ông Burnaby, chủ đất khu Three Crowns lên tiếng.
Rồi ông huých khuỷu tay vào người đi cùng.
Hai người đàn ông há miệng tròn mắt nhìn chăm chăm.
Một chiếc Rolls-Royce to màu đỏ vừa mới đỗ xịch trước cổng bưu điện.
Một thiếu nữ bước ra, không đội mũ và mặc một chiếc đầm trông có vẻ – chỉ có vẻ – giản dị. Một cô gái với mái tóc vàng óng và rất có nét – một thiếu nữ với dáng vẻ yêu kiều – thật là một người con gái hiếm gặp ở Malton-under-Wode.
Rồi cô nhanh nhẹn bước vào bưu điện.
“Chính là cô ấy!” Ông Burnaby lặp lại. Và ông thấp giọng tiếp tục. “Cô ấy có tiền triệu đấy… rồi sẽ chỉ cả trăm ngàn vào mảnh đất đó. Sẽ có hồ bơi, vườn kiểu Ý và một phòng khiêu vũ, rồi thì một nửa căn nhà sẽ bị đập bỏ và xây lại…”
“Cô ấy mang tiền đến cho thị trấn này” Người đi cùng đáp lời. Đó là một người đàn ông gầy còm, nom thiếu ăn. Và giọng của ông ta đầy sự ganh tị và ác cảm.
Ông Burnaby đồng ý.
“Đúng, đây là một điều tuyệt vời cho Malton-under-Wode. Thật sự rất tuyệt vời”.
Ông Burnaby cảm thấy hả hê vì chuyện này.
“Nó sẽ nâng tất cả chúng ta lên.” Ông thêm vào.
“Một chút khác biệt so với Ngài George nhỉ,” người đàn ông kia nói.
“Ừ, chính những con ngựa đã mang tiền về cho ông ấy,” ông Burnaby đồng tình trả lời. “Không bao giờ không gặp may mắn cả.”
“Thế ông ấy thu được bao nhiêu từ mảnh đất?”
“Tôi nghe nói là sáu mươi ngàn”.
Người đàn ông gầy gò huýt sáo một tiếng.
Ông Burnaby tiếp tục đầy hứng khởi: “Người ta cũng đồn rằng cô ấy hẳn sẽ chỉ thêm sáu mươi ngàn nữa để hoàn thành mọi thứ đấy”.
“Dữ nhỉ!” Ông gầy tiếp. “Cô ấy lấy đâu ra mà lắm tiền thế?”
“Ở Mỹ, tôi nghe thế. Mẹ cô ấy là con gái duy nhất của một triệu phú. Hoàn cảnh giống nhau nhỉ, phải không?”
Sau đó, người thiếu nữ bước ra khỏi bưu điện và lên xe.
Khi cô lái xe đi, người đàn ông gầy gò kia vẫn dõi mắt trông theo và lẩm bẩm: “Với tôi mọi thứ có vẻ không ổn – trông cô ấy tuyệt thế kia. Tiền của và sắc đẹp – thật là quá nhiều! Nếu một cô gái đã giàu có như thế kia thì không thể nào lại xinh đẹp nữa. Nhưng cô ấy thật sự là một người rất xinh đẹp… Cô ấy có tất cả mọi thứ. Có vẻ không công bằng…”
Trích từ mục Xã hội trên tờ Nhật báo Blague.
Tôi phát hiện ra Linnet Ridgeway xinh đẹp giữa những người đang thưởng thức bữa tối tại Chez Ma Tante. Cô đi cùng với Công nương Joanna Southwood, Huân tước Windlesham, và ông Tobby Bryce. Cô Ridgeway, như mọi người biết, là con gái của ông Melhuish Ridgeway và vợ Anna Hartz. Và cô được thừa kế một khối tài sản khổng lồ từ ông ngoại của mình – Leopold Hartz. Cô Linnet khả ái hiện là tâm điểm của mọi sự chú ý và có tin đồn rằng một cuộc đính hôn sẽ được thông báo trong nay mai. Hẳn nhiên ngài Windlesham trông có vẻ đăm chiêu!!
Ngồi trong phòng ngủ của Linnet Ridgeway tại Wode Hall, công nương Joanna Southwood thốt lên: “Bạn thân mến, tớ nghĩ mọi thứ sẽ thật tráng lệ.”
Từ cửa sổ căn phòng, cô phóng tầm mắt ra khu vườn và xa hơn là miền đồng quê được bao phủ bởi bóng mát xanh rượi của khu rừng.
“Mình lại nghĩ nó khá hoàn hảo đấy, phải không?” Linnet đáp lời.
Tựa tay vào thành cửa sổ, Linnet trông thật hồ hởi, sống động và linh hoạt. Bên cạnh cô, Joanna Southwood – một phụ nữ trẻ hai mươi bảy tuổi, cao, gầy với gương mặt dài thông minh và hàng lông mày không được chăm chút kĩ, trông có vẻ suy tư.
“Cậu đã làm được nhiều thứ trong thời gian vừa rồi! Thế cậu có nhiều kiến trúc sư và các thứ không?”
“Ba người thôi.”
“Những kiến trúc sư thì trông như thế nào nhỉ? Tớ chưa bao giờ được thấy người nào cả.”
“Họ cũng bình thường thôi. Đôi khi mình thấy họ hơi thiếu thực tế một chút.”
“Bạn thân mến ơi, rồi cậu sẽ sớm sắp đặt mọi thứ đâu vào đấy! Cậu là đứa thực tế nhất mà!”
Rồi Joanna cầm lên xem một chuỗi hạt ngọc trai trên bàn trang điểm.
“Đây là đồ thật hả Linnet?”
“Tất nhiên rồi!”
“Tớ biết, đối với cậu thì là như vậy, nhưng với hầu hết những người khác thì không. Họ thường dùng những đồ đã gia công nhiều hay thậm chí mua từ Woolworth! Mà cậu nè, những hạt ngọc trai này thật đặc biệt, trông chúng thật sắc sảo. Chắc nó đáng giá lắm đây!”
“Cũng thường thôi mà.”
“Không, không phải thế đâu – nó có một vẻ đẹp thuần khiết. Hết bao nhiêu tiền thế?”
“Khoảng năm mươi ngàn.”
“Ôi nhiều thế cơ à! Mà cậu không sợ nó bị đánh cắp hay sao?”
“Không, mình luôn đeo nó mà – và dù gì thì nó cũng được mua bảo hiểm rồi.”
“Cho tớ đeo nó đến giờ ăn tối nhé, được không bạn thân mến? Nó sẽ làm tớ vui sướng lắm đây.”
Linnet cười vang.
“Dĩ nhiên, nếu cậu thích.”
“Cậu biết không, Linnet, tớ thật sự ganh tị với cậu đó. Cậu có tất cả mọi thứ thật dễ dàng. Ở tuổi hai mươi, cậu là một nữ hoàng, muốn xài tiền bao nhiêu cũng có, rồi sắc vóc, và sức khỏe nữa. Mà cậu còn thông minh nữa chứ! À, khi nào thì cậu bước qua sinh nhật tuổi hai mươi mốt nhỉ?”
“Tháng sáu tới. Tớ sẽ tổ chức một buổi tiệc lớn ở London để mừng sự kiện này.”
“Rồi sau đó cậu sẽ cưới Charles Windlesham chứ? Tất cả các cây bút lá cải đều phấn khích về chuyện này. Còn anh ấy thì hết lòng vì cậu.”
Linnet nhún vai.
“Tớ cũng không biết nữa. Tớ thực sự chưa muốn cưới ai hết.”
“Bạn thân mến à, cậu đúng đó. Mọi việc về sau sẽ không bao giờ như lúc đầu đâu, phải không?”
Bỗng chuông điện thoại reo lên và Linnet liền bước tới chỗ đấy.
“Có gì không?”
Người quản gia trả lời: “Có cô de Bellefort gọi ạ. Tôi nối máy cho cô nhé?”
“Bellefort? Ô, dĩ nhiên rồi, nối máy cô ấy cho tôi.”
Tiếng cúp máy và một giọng nói thật hồ hởi, nhỏ nhẹ cất lên: “Xin chào, có phải cô Ridgeway không? Linnet đó à!”
“Jackie yêu quý! Đã lâu rồi mình không nghe tin tức gì của cậu!”
“Tớ biết. Thật kinh khủng. Linnet, tớ muốn gặp cậu ngay.”
“Cậu có thể xuống đây được không? Nhà mới của tớ đó. Tớ muốn cậu xem nó.”
“Đó cũng là điều tớ định nói với cậu.”
“Tốt, thế thì nhảy lên một chuyến tàu hay lái xe xuống đây đi.”
“Được rồi, tớ làm liền. Tớ mới mua một chiếc xe hai chỗ đã cũ nát mất mười lăm bảng, và sau vài ngày thì nó mới chạy ngon. Nhưng mà nó cũng có từng cơn đó nha. Nếu tớ không đến trước giờ uống trà thì cậu biết là nó lên cơn rồi nhé. Lâu rồi không được gặp cô bạn yêu quý.”
Linnet đặt ống nghe xuống và quay lại chỗ Joanna.
“Đó là người bạn thân nhất của tớ, Jacqueline de Bellefort. Chúng tớ có thời gian ở cùng nhau tại một tu viện ở Paris. Cô ấy vừa trải qua thời kỳ đen tối nhất của cuộc đời. Cha cô ấy là một kế toán người Pháp, còn mẹ đến từ miền Nam nước Mỹ. Cha thì bỏ theo người đàn bà khác, còn mẹ thì mất sạch tiền sau cuộc khủng hoảng phố Wall. Nên chỉ còn lại Jackie với hai bàn tay trắng. Tớ cũng không biết bằng cách nào mà cô ấy có thể xoay xở trong hai năm vừa rồi.”
Joanna đang ngồi đánh bóng những móng tay đỏ chót của mình bằng cây cọ của người bạn. Cô ngồi ngả lưng và nghiêng đầu sang một bên kiểm tra lại vết sơn tay.
“Bạn thân mến,” cô dài giọng, nói. “không phải điều đó chán ngắt hay sao? Nếu có điều không may xảy đến với người bạn của tớ thì tớ sẽ bỏ họ ngay tắp lự! Nghe thì có vẻ vô cảm, nhưng nó sẽ giúp cho mình tránh khỏi rắc rối sau này. Những người này luôn muốn mượn tiền của cậu rồi chạy làng, hoặc họ sẽ mở một xưởng may quần áo và cậu sẽ phải nhận những bộ áo quần tệ nhất. Hoặc là họ sẽ sơn những cái chụp đèn, hay là làm thủ công những khăn choàng cổ chẳng hạn.”
“Vậy sao, nếu mình cũng cạn tiền, cậu cũng sẽ bỏ mình ngay ngày mai à?”
“Đúng vậy bạn thân mến ơi, tớ sẽ bỏ cậu liền. Và cậu cũng không thể nói rằng tớ đã không thành thật về điều này! Tớ chỉ thích những người thành đạt. Và cậu sẽ thấy điều này cũng đúng với hầu hết mọi người – chỉ là đa số mọi người không thừa nhận nó mà thôi. Thường họ chỉ nói là họ chịu đựng Maria, Emily hay Pamela hết nổi nữa rồi. ‘Thật tội nghiệp, những khó khăn đã làm cho cô ấy trở nên chua chát hơn và khép kín lại!’”
“Cậu thật là nhẫn tâm, Joanna!”
“Tớ chỉ là người nhìn lên trên, như những người khác thôi.”
“Mình không phải là người như thế!”
“Lý do quá hiển nhiên! Cậu không phải quá nhỏ mọn như vậy khi có những quản lý người Mỹ dễ thương hàng quý đưa cho cậu một khoản tiền lớn.”
“Cậu đã sai về Jacqueline rồi,” Linnet nói. “Cô ấy không phải là loại rác rưởi như thế đâu. Tớ chỉ muốn giúp cô ấy, nhưng cô ấy không chịu nhận. Cô ấy rất hãnh tiến.”
“Thế thì tại sao cô ta lại vội vàng tới thăm cậu chứ? Tớ cá là cô ta có dự định gì đây. Cậu cứ chờ mà xem.”
“Đúng là cô ấy có vẻ phấn khích về điều gì đó.” Linnet thú nhận. “Jackie thường hay làm quá lắm. Cô ấy đã từng một lần đâm dao vào người ta.”
“Ghê vậy bạn thân mến!”
“Một lần Jackie cố ngăn cản một thằng nhóc đang trêu chọc một con chó. Nhưng thằng bé không chịu đừng. Thế là Jackie kéo thằng bé lại, nhưng nó chống cự khỏe hơn, và cuối cùng cô ấy đã rút ra một con dao nhỏ và đâm thẳng vào đứa nhóc. Đó là sự việc kinh khủng nhất!”
“Tớ cũng nghĩ vậy. Nghe có vẻ đó là việc khó chịu nhỉ!” Người hầu gái của Linnet bước vào phòng. Rồi cô lí nhí xin phép, lấy một chiếc đầm từ tủ quần áo và bước ra ngoài.
“Có chuyện gì với Marie thế nhỉ?” Joanna thắc mắc. “Nó đang khóc đấy.”
“Thật tội nghiệp! Cậu có nhớ là tớ đã kể cho cậu nghe chuyện Marie muốn cưới một ông đang làm việc ở Ai Cập không. Nó chẳng biết nhiều gì về ông đó, nên tớ mới nghĩ tốt hơn hết phải tìm hiểu xem ông ta có được hay không. Và hóa ra là gã đó đã có một vợ và ba con rồi.”
“Sao cậu lại tạo ra nhiều kẻ thù vậy, Linnet?”
“Kẻ thù ư?” Linnet ngạc nhiên hỏi.
Joanna gật đầu đồng ý và đốt một điếu thuốc lá.
“Kẻ thù, bạn thân mến à. Cậu giỏi ghê. Và cậu cũng làm việc đó thật là giỏi.”
Linnet cười vang.
“Tại sao chứ, tớ chưa từng có một kẻ thù nào trên thế giới này.”
Ngài huân tước Windlesham ngồi dưới cây bách hương nhìn mảnh đất Wode Hall thanh bình. Không có gì có thể phá vỡ vẻ đẹp cổ xưa này; những tòa nhà cao ốc mới và những thứ xung quanh đều nằm ngoài tầm mắt. Một khung cảnh thật êm đềm và yên bình trong nắng trời mùa thu. Nhưng sau một cái chớp mắt, nó không còn là Wode Hall mà Charles Windlesham đã từng thấy nữa. Thay vào đó là tòa dinh thự theo kiểu Elizabeth, một công viên trải dài, một khung cảnh ảm đạm hơn… Đây từng là nơi nhà anh ở – Charltonbury – rồi có một bóng người ở sân trước – bóng dáng của một thiếu nữ với mái tóc vàng rực và gương mặt sáng sủa tự tin… Chính là Linnet – cô chủ của Charltonbury!
Anh chợt cảm thấy hi vọng. Sự từ chối của cô không hẳn là một sự từ chối. Nó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, ừ, anh có thể chờ đợi một chút…
Mọi việc thật thích hợp một cách kinh ngạc! Chắc chắn anh được khuyên nên cưới tiền, nhưng đó cũng không phải là vấn đề tiên quyết để anh bỏ tình cảm của mình sang một bên. Và anh yêu Linnet. Anh vẫn muốn cưới cô ngay cả khi cô không có một đồng xu dính túi thay vì là một trong những người con gái giàu nhất nước Anh. Thật may mắn khi cô là một trong những người con gái giàu nhất Anh quốc…
Trong đầu anh đang vẽ ra những kế hoạch hấp dẫn cho tương lai. Anh có thể nắm quyền vùng Roxdale, khôi phục lại vùng phía tây, không nhất thiết cho người Scotland săn bắn nữa…
Charles Windlesham đang mơ giữa ban ngày.
Lúc bốn giờ chiều, một chiếc xe hai chỗ nhỏ xíu dừng lại cùng với tiếng sỏi lạo xạo. Một thiếu nữ bước ra – một cô gái mảnh khảnh với mái tóc đen rối bù. Cô liền chạy lên các bậc thang và nhấn chuông cửa.
Một vài phút sau cô được dẫn vào một phòng khách rộng lớn, và người quản gia chào cô với giọng vừa đủ: “Cô de Bellefort.”
“Linnet!”
“Jackie!”
Windlesham đứng cạnh bên và nhìn một cách cảm thông khi con người nhỏ bé nồng nhiệt này dang đôi tay chạy đến Linnet.
“Huân tước Windlesham – đây là cô de Bellefort – bạn thân nhất của em.”
Một người được đấy, anh nghĩ – không thật đẹp nhưng rất cuốn hút với mái tóc quăn đen và cặp mắt to. Anh lầm bầm nói gì đó rồi âm thầm rút lui để lại hai người bạn nói chuyện với nhau.
Jacqueline liền chụp lấy Linnet theo cách mà Linnet nhớ đó chính là đặc điểm nhận biết của nàng ta.
“Windlesham? Windlesham ư? Đó là người đàn ông mà báo chí hay nói rằng cậu sẽ cưới làm chồng! Phải không, Linnet? Có đúng không?”
Linnet ậm ừ: “Có thể.”
“Cậu yêu quý… Tớ mừng quá! Anh ấy trông dễ thương đấy.”
“Ô, đừng kết luận vội vậy chứ… tớ còn chưa quyết định mà.”
“Dĩ nhiên là chưa rồi! Các nữ hoàng thường tiến hành xem xét rất cẩn trọng trong việc chọn đức lang quân mà!”
“Đùng vớ vẩn như thế, Jackie.”
“Nhưng cậu là một nữ hoàng mà Linnet! Cậu luôn từng như thế. Nữ hoàng của tôi, nữ hoàng Linette. Linette tóc vàng. Và tớ… người bạn tâm giao của Nữ hoàng! Người phù dâu đáng tin cậy!”
“Cậu nói vớ vẩn gì đấy, Jackie yêu quý! Cậu đã đi đâu suốt thời gian qua? Cậu đột nhiên biến mất và không thấy thư từ gì cả.”
“Tớ ghét viết thư. Còn tớ ở đâu ấy hả? Ô, bị chìm trong CÔNG VIỆC khoảng ba phần, cậu biết đấy. Những công việc dữ dội với những người đàn bà ghê gớm!”
“Bạn thân mến ơi, tớ ước cậu…”
“Nhận được ân sủng của Nữ hoàng, phải không? Thật ra đó chính là lý do tớ có mặt ở đây, bạn thân mến à. Không, không phải để mượn tiền. Chưa đến mức đó đâu! Nhưng tớ đến đây xin một đặc ân rất quan trọng!”
“Tiếp đi nào.”
“Nếu cậu chuẩn bị cưới Windlesham, có thể cậu sẽ hiểu thôi.”
Linnet thoáng một chút lúng túng rồi gương mặt cô giãn ra. “Jackie, có phải ý cậu là…?”
“Đúng rồi. Tớ đã đính hôn!”
“Hóa ra là thế! Thảo nào tớ thấy cậu trông rạng rỡ hẳn lên. Dĩ nhiên cậu vẫn thường thế, nhưng bây giờ cậu còn tươi tắn hơn những lúc ấy.”
“Tớ cũng cảm thấy vậy.”
“Kể cho tớ nghe về anh ấy nào.”
“Tên anh ấy là Simon Doyle. Anh ấy to con, vạm vỡ, người rất giản đơn và như con nít ấy, là một người cực kì dễ thương! Nhưng anh ấy nghèo lắm – anh ấy không có đồng nào cả. Nếu gọi anh là một ‘thị trấn’ thì đó là một thị trấn nghèo xơ xác và tất cả chỉ có thế. Anh ấy đến từ vùng Devonshire. Anh ấy yêu miền quê và những gì thuộc về đồng quê. Trong năm năm vừa rồi anh ấy lên sống ở thành phố và làm việc trong một văn phòng chật chội. Và bây giờ khi họ cắt giảm người thì anh ấy bị mất việc. Linnet, tớ sẽ chết mất nếu không cưới được anh ấy! Tớ sẽ chết! Tớ sẽ chết mất! Tớ sẽ chết mất thôi…”
“Đừng có lố bịch thế chứ, Jackie.”
“Tớ nói với cậu đó, tớ sẽ chết! Tớ phát cuồng vì anh ấy. Anh ấy cũng phát rồ vì tớ. Chúng tớ không thể sống thiếu nhau được.”
“Bạn thân mến ơi, bạn thân mến đã nghiêm trọng hóa vấn đề rồi!”
“Tớ biết. Nó thật khủng khiếp, phải không? Một khi cậu đã bước vào tình trường rồi thì cậu chẳng thể làm được gì nữa đâu.”
Và cô ngừng lời trong giây lát. Đôi mắt đen của cô giãn ra, và bỗng nhiên trông rất thê lương. Cô khẽ rùng mình.
“Thậm chí đôi lúc nó rất đáng sợ! Simon và tớ được sinh ra là để dành cho nhau. Tớ sẽ không bao giờ quan tâm đến một ai khác. Và cậu phải giúp chúng tớ, Linnet. Tớ nghe nói cậu đã mua miếng đất này và nó làm nảy sinh trong đầu tớ một ý nghĩ. Nghe này, cậu sẽ phải cần một người quản lý đất… có thể là hai. Và tớ muốn cậu giao công việc này cho Simon.”
“Ô!” Linnet thốt lên ngạc nhiên.
Jacqueline tiếp tục hối thúc: “Anh ấy biết hết mọi thứ. Anh ấy biết mọi việc về bất động sản – anh ấy từng lớn lên trên một mảnh đất như thế. Và anh ấy cũng đã được đào tạo nghiệp vụ rồi. Ôi, Linnet, cậu sẽ cho anh ấy một công việc chứ, vì tình cảm đối với tớ? Nếu anh ấy làm không tốt, cứ trừng phạt anh ấy. Nhưng anh ấy sẽ làm tốt thôi. Và rồi chúng tớ sẽ cùng sống trong một ngôi nhà nhỏ, tớ sẽ được gặp cậu nhiều lần, và mọi thứ trong khu vườn sẽ thật thánh thiện.”
Rồi cô đứng dậy.
“Hứa rằng cậu sẽ làm thế nhé Linnet. Cậu hứa đi. Linnet xinh đẹp! Linnet tóc vàng cao ráo! Linnet đặc biệt của tớ! Hứa rằng cậu sẽ làm nhé!”
“Jackie…”
“Cậu hứa chứ?”
Linnet bật cười lớn tiếng.
“Vớ vẩn quá Jackie! Hãy mang người đàn ông trẻ của cậu tới đây và để tớ xem anh ấy thế nào rồi sẽ bàn kỹ hơn.”
Jackie liền nhảy bổ vào Linnet, hôn cô tới tấp.
“Linnet yêu quý… cậu đúng là một người bạn thực thụ! Tớ biết cậu mà. Cậu không làm tớ thất vọng đâu – chưa bao giờ. Cậu là người dễ thương nhất trên thế gian này. Chào tạm biệt cậu nhé.”
“Nhưng, Jackie, cậu ở lại chứ.”
“Tớ hả? Không, tớ không ở lại. Tớ sẽ quay về London, ngày mai tớ sẽ quay lại và kéo Simon theo, và chúng ta sẽ sắp xếp mọi chuyện. Cậu sẽ mến anh ấy cho mà xem. Anh ấy thật sự là một người đáng mến.”
“Nhưng cậu không thể đợi một chút và dùng ít trà rồi đi sao?”
“Không, tớ không thể đợi thêm được nữa, Linnet. Tớ thấy phấn chấn quá. Tớ phải trở về ngay và nói cho Simon biết. Tớ biết là tớ khùng, nhưng bạn thân mến ơi, tớ không thể dừng lại được. Hôn nhân sẽ chữa lành tớ, tớ hi vọng như vậy. Dường như nó có một tác động thần kì lên con người ta đó.”
Rồi cô quay ra cửa, đứng lại một lát, và sau đó lật đật quay lại cho một cái ôm vội nhanh như cắt.
“Linnet yêu quý… không ai được như cậu cả.”
Ngài Gaston Blondin, chủ nhà hàng sang trọng nhỏ Chez Ma Tante, không phải là người thường vui mừng chào đón khách hàng của mình. Người giàu, người đẹp, kẻ khét tiếng, và người lương thiện có thể phải chờ đợi vô ích để được nhận ra và hút được sự quan tâm đặc biệt của ông. Chỉ những trường hợp hiếm hoi, với sự chiếu cố đặc biệt, ngài Blondin mới chào đón một người khách, đưa người ấy đến bàn đặc biệt, và thể hiện những cư xử lịch thiệp.
Vào tối hôm đó, ngài Blondin đã ba lần thực hiện đặc quyền hoàng gia ấy của mình – một lần đối với một Công tước phu nhân, một lần với một tay đua xe nổi tiếng, và một lần với người đàn ông có dáng vẻ kì cục mà bất cứ một người bình thường nào thấy đều nghĩ rằng sự hiện diện của ông tại Chez Ma Tante sẽ không nhận được một sự ưu ái nào.
Tuy nhiên, ngài Blondin lại thấy phấn khích với sự chú ý của mình. Mặc dù khách hàng trong vòng nửa tiếng qua được thông báo rằng đã hết bàn, bỗng dưng lại có một bàn còn trống bí ẩn xuất hiện, lại còn được đặt ở vị trí ngon lành nhất. Ngài Blondin còn nhiệt tình dẫn người khách đó tới chỗ ngồi.
“Như thường lệ, luôn có một bàn dành cho ông, thưa quý ông Poirot! Tôi mong muốn là ông sẽ dành đặc ân ghé quán chúng tôi thường xuyên!”
Hercule Poirot mỉm cười, nhớ lại những gì vừa xảy ra mà một xác chết, một anh hầu bàn, ngài Blondin, và một người phụ nữ dễ thương góp phần trong đó.
“Ông thật tử tế, ông Blondin,” ông đáp.
“Ông đi một mình à, ông Poirot?”
“Vâng, tôi đi một mình.”
“Ô, thế à, thế Jules đây sẽ làm cho ông một bữa nho nhỏ như là một bài thơ – thực sự là một bài thơ! Phụ nữ ấy mà, tuy quyến rũ, nhưng lại có một điểm yếu: họ làm đầu óc chúng ta xao lãng khỏi thức ăn! Ông sẽ thích thú với bữa tối, ông Poirot; tôi hứa với ông. Và bây giờ đến phần rượu…”
Tiếp theo đó là sự trao đổi về rượu với sự trự giúp của Jules, người phụ trách nhà hàng.
Trước khi cất bước, ngài Blondin nán lại trong chốc lát, thấp giọng hỏi nhỏ: “Ông đang xử lý các vụ án nghiêm trọng à?”
Poirot lắc đầu.
“Ố la la, tôi đang là người thảnh thơi,” ông nhẹ nhàng đáp lại. “Tôi đã làm việc cật lực thời đi làm rồi và bây giờ tôi đang tận hưởng cuộc sống nhàn rỗi.”
“Tôi ganh tị với ông đó.”
“Không, không, như thế thật không khôn ngoan chút nào. Tôi có thể đảm bảo rằng nó không giống cuộc sống của người nhàm chán như những gì thể hiện đâu.” Ông thở dài. “Câu nói rằng người đàn ông buộc phải tạo ra việc làm để tránh phải suy nghĩ thật là đúng.”
Blondin giơ hai tay lên.
“Nhưng còn nhiều thứ lắm mà! Còn việc đi du lịch nữa!”
“Ừ, đi du lịch. Tôi đã thực hiện cũng kha khá rồi. Tôi sẽ đến Ai Cập vào mùa đông này, tôi nghĩ thế. Khí hậu ở đó thật tuyệt vời, mọi người nói như vậy! Người ta sẽ thoát khỏi cảnh sương mù, bầu trời xám xịt, sự đơn điệu của những cơn mưa không dứt.”
“Ai Cập à.” Blondin thở gấp.
“Người ta thậm chí còn có thể đi đến đó bằng tàu lửa, tôi tin là như thế, và tránh được việc đi trên biển trừ chuyện phải đi qua con kênh.”
“Biển à, chẳng lẽ ông không chịu được sao?”
Hercule Poirot lắc đầu và khẽ nhún vai.
“Tôi cũng thế,” Blondin đáp lại đầy cảm thông. “Tôi cũng tò mò không biết nó tác động như thế nào lên dạ dày của con người.”
“Nhưng chỉ tác động lên một số dạ dày thôi! Có những người không hề bị ảnh hưởng khi di chuyển. Thực ra họ còn tận hưởng cảm giác đó nữa!”
“Ông trời thật không công bằng.” Blondin thốt lên.
Ông lắc đầu buồn bã, nghĩ về những điều phi tín ngưỡng đó, và thôi không tranh luận nữa.
Lúc này những người phục vụ với đôi chân thoăn thoắt và bàn tay khéo léo đang chỉnh lại chiếc bàn. Món nướng Melba, bơ, một khay đá, và những thứ đi kèm tạo thành một bữa ăn trông thật ngon miệng.
Dàn nhạc của người da đen khơi dậy nỗi đam mê với những âm thanh lên xuống trầm bổng. Và London bắt đầu khiêu vũ.
Hercule Poirot nhìn quanh, ông ghi nhận sự việc vào cái đầu được sắp xếp trật tự của mình.
Hầu như mọi gương mặt đều trông chán chường và mệt mỏi! Tuy nhiên cũng có một vài người đàn ông lực lưỡng lại đang tự tận hưởng… trong khi những bạn nhảy của họ lại thể hiện sự chịu đựng không khác nào bệnh nhân qua những sắc thái thể hiện trên gương mặt. Một người phụ nữ phốp pháp trong trang phục tím trông thật rực rỡ… Không nghi ngờ gì nữa, người mập thường có những sự đền bù khác của cuộc đời… sự vui vẻ – sự lạc quan – đối lập lại với những người có bề ngoài hợp thời hơn.
Một sự đa sắc ở người trẻ – một số đang kiếm chỗ trống – một số trông chán chường – một số hẳn không vui. Thật vô lý khi gọi tuổi trẻ là khoảng thời gian hạnh phúc – tuổi trẻ chính là thời kỳ dễ bị tổn thương nhất!
Ánh nhìn của ông dịu lại khi dừng mắt ở một cặp đôi đặc biệt. Một cặp rất xứng đôi – người thanh niên cao với bờ vai rộng, người thiếu nữ mảnh khảnh dịu dàng. Hai con người đó đang cùng hòa chung nhịp đập hạnh phúc hoàn hảo. Sự hạnh phúc lan tỏa khắp không gian, thời gian, và trong mỗi người họ.
Đột nhiên điệu nhảy ngừng lại. Tiếng vỗ tay vang lên và rồi âm nhạc lại bắt đầu. Sau điệu nhảy lại lần thứ hai, cặp đôi trở về lại bàn của mình ở gần Poirot. Cô gái mặt ửng hồng và cười sảng khoái. Khi cô ngồi xuống, chuyển nụ cười sang anh thanh niên đi cùng, ông bắt đầu quan sát gương mặt của cô.
Có điều gì đó khác lạ trong mắt cô bên cạnh tiếng cười. Hercule Poirot lắc đầu nghi ngờ.
“Cô gái quan tâm quá mức đến anh chàng đó.” Ông tự nhủ với chính mình. “Không ổn. Không, không ổn một chút nào.” Và ngay sau đó có hai từ lọt vào tai ông: ‘Ai Cập’.
Ông nghe rõ giọng nói của cập đôi – giọng của cô thiếu nữ thì trẻ trung, trong trẻo, kiêu hãnh, với thêm một chút ít ám thanh nhẹ nhàng của tiếng ngoại quốc, và giọng của anh thanh niên thì dễ nghe, tông thấp, và đặc sệt giọng Anh.
“Em không có ‘chưa đẻ đã vội đặt tên’ đâu, Simon. Em nói với anh rồi, Linnet sẽ không làm chúng ta thất vọng đâu!”
“Biết đâu anh làm cô ấy thất vọng.”
“Vớ vẩn – đó chính là công việc thích hợp với anh.”
“Trên thực tế thì đúng như vậy… Anh không nghi ngờ gì về khả năng của mình. Và ý anh là anh phải làm – vì em đấy!” Cô gái cười khúc khích, một nụ cười của sự hạnh phúc tinh khôi.
“Chúng ta sẽ đợi ba tháng – để đảm bảo là anh không bị đuổi việc – và sau đó thì…”
“Và sau đó anh sẽ trao lời hẹn ước – đó là điểm mấu chốt của chuyện này, phải không em?”
“Và như em đã nói trước đây, chúng ta sẽ đi trăng mật ở Ai Cập. Chi phí mắc thiệt đó! Cả cuộc đời em vẫn luôn muốn được đến Ai Cập. Ở đó có dòng sông Nile, Kim tự tháp và những đồi cát…”
Chàng thanh niên đáp với giọng không rõ lắm: “Chúng ta sẽ cùng đến đó, Jackie… cùng nhau em à. Như thế không phải tuyệt vời hay sao?”
“Em đang phân vân. Không biết sự tuyệt vời đó đối với anh có giống như đối với em hay không? Anh có thực sự quan tâm nhiều như em quan tâm hay không?”
Giọng cô chợt chùng lại – đôi mắt giãn ra – với sự sợ sệt. Chàng thanh niên nhanh miệng trả lời quả quyết: “Đừng khờ khạo thế chứ, Jackie.”
Nhưng cô gái vẫn lặp lại: “Em vẫn tự hỏi…”
Rồi cô nhún vai. “Thôi chúng ta nhảy đi.”
Hercule Poirot lầm bầm một mình: “Một người thì yêu và một người được yêu. Ừ, tôi cũng thấy phân vân.”
Joanna Southwood hỏi: “Giả sử anh chàng đó là một kẻ khó chơi thì sao?”
Linnet lắc đầu. “Ồ, không đâu. Tớ có thể tin vào trực giác của Jacqueline.”
Joanna lẩm bẩm: “Nhưng người ta thường không nhận ra được chân tướng khi đang yêu đâu.”
Linnet lắc đầu chán nản. Sau đó cô chuyển đề tài: “Tớ phải đi gặp ông Pierce để trao đổi một số kế hoạch đây.”
“Kế hoạch à?”
“Ừ, một vài ngôi lều cũ bẩn thỉu dơ dáy đó mà. Tớ đang cho tháo dỡ chúng sau khi mọi người ở đó đã chuyển đi hết.”
“Ôi cậu thật là sạch sẽ và có tinh thần vì mọi người, bạn thân mến ơi!”
“Dù gì thì họ cũng phải dọn đi thôi. Những túp lều đó sẽ trông ra hồ bơi mới của tớ.”
“Thế những người sống ở đó có chịu chuyển đi không?”
“Hầu hết mọi người đều rất vui vẻ. Chỉ có một, hai người tỏ ra ngu ngốc thôi – thực ra thì quá lố. Họ dường như không nhận ra cuộc sống của họ sẽ được cải thiện đáng kể như thế nào!”
“Nhưng tớ nghĩ trong vụ này cậu hơi mạnh tay đấy.”
“Joanna thân mến, thật sự cũng vì lợi ích của họ mà thôi.”
“Đúng rồi, bạn thân mến. Tớ chắc là như thế. Lợi ích bắt buộc.”
Linnet cau mày lại, còn Joanna phá lên cười.
“Bây giờ cậu thú nhận đi, cậu là một nhà độc tài. Một nhà độc tài từ thiện, nếu cậu thích.”
“Tớ một chút cũng không phải là nhà độc tài đâu.”
“Nhưng cậu thích mọi việc theo ý mình!”
“Không hẳn vậy.”
“Linnet Ridgeway, hãy nhìn vào mặt tớ và cho tớ biết có khi nào cậu không được như ý chưa?”
“Nhiều lần rồi.”
“Ừ, phải, ‘nhiều lần rồi’ – chỉ có thế thôi – nhưng lại không có một ví dụ cụ thể nào cả. Và đơn giản vì cậu không nghĩ ra được ví dụ nào cho dù cậu đã cố, bạn thân mến à! Mọi sự thuận lợi của Linnet Ridgeway đều nằm trong tầm tay của cô ấy.”
Linnet gằn giọng: “Cậu nghĩ tớ ích kỷ à?”
“Không – chỉ là tớ không ngăn được suy nghĩ này. Sự kết hợp giữa tiền và vẻ quyến rũ. Mọi thứ đều trong tay cậu. Cái mà cậu không thể mua được bằng tiền, cậu có thể có nó bằng nụ cười của cậu. Kết quả là: Linnet Ridgeway, Cô Nàng Có Được Mọi Thứ.”
“Đừng đùa cợt như vậy chứ, Joanna!”
“Không phải cậu đã có mọi thứ sao?”
“Tớ cho rằng tớ có… Nhưng nghe nó ghê gớm quá!”
“Tất nhiên là nó như vậy đấy, bạn thân mến! Lát nữa có thể cậu sẽ cảm thấy chán khủng khiếp và đơn điệu. Nhưng cùng lúc đó, cậu vẫn tận hưởng được cảm giác thuận lợi trong tầm tay. Chỉ có tớ là phân vân, tớ thật sự thắc mắc điều gì sẽ xảy ra khi cậu xuống phố gập một biển hiệu ‘Đường cấm’.”
“Đừng ngốc nghếch thế, Joanna.” Ngay khi đó Huân tước Windlesham vào cùng tham gia với họ, Linnet quay qua anh và nói: “Joanna đang nói những điều khó nghe với em.”
“Đùa thôi mà, bạn thân mến, đùa thôi mà,” Joanna mơ hồ đáp lại khi cô đứng dậy khỏi chiếc ghế.
Cô không xin phép để rút khỏi cuộc nói chuyện, chỉ đứng dậy bỏ đi. Và cô bị bắt gặp bởi ánh nhìn của Windlesham.
Anh im lặng trong một, hai phút rồi sau đó đi thẳng vào vấn đề.
“Em đã quyết định chưa, Linnet?”
Linnet từ tốn trả lời: “Em đâu phải là loài cầm thú, phải không anh? Em nghĩ, nếu em chưa đoan chắc, em phải trả lời là ‘Không’…”
Anh ngắt lời cô: “Đừng nói như thế chứ. Em sẽ có thời gian – bao nhiêu là tùy em. Nhưng anh nghĩ, em cũng biết mà, chúng ta sẽ hạnh phúc bên nhau.”
Linnet vẫn như con nít cô cãi bướng: “Anh thấy đấy, bản thân em vẫn vui vẻ – đặc biệt với tất cả những thứ này.” Cô đưa tay lên chỉ: “Em muốn cải tạo Wode Hall thành một căn nhà đồng quê thật sự lý tưởng, và em nghĩ em sẽ làm nó tươi đẹp, anh có nghĩ vậy không?”
“Đúng, thật là đẹp. Kế hoạch này thật hay. Mọi thứ đều hoàn hảo. Em thật thông minh, Linnet.”
Anh dừng trong giây lát rồi tiếp tục: “Em có thích Charltonbury không? Hẳn nhiên là nó cần được nâng cấp và mọi thứ tương tự như vậy – nhưng đúng là em rất giỏi về những việc như thế. Và em còn thích thú với chuyện này nữa.”
“Sao thế, Charltonbury quá tráng lệ rồi mà.”
Cô trả lời với tất cả sự nhiệt huyết, nhưng cô cảm nhận được một sự chùng lòng bất chợt ở bên trong con người mình. Một âm thanh lạ lùng vang lên, xen vào sự hài lòng với cuộc sống của cô. Ngay lúc này cô không thể hiểu rõ cảm giác đó, nhưng sau khi Windlesham đã rời khỏi, cô cố gắng nắm bắt chỗ lấn cấn đó trong trí óc mình.
Charltonbury – vâng, đúng là nó – cô cảm thấy tức giận khi đề cập đến Charltonbury. Nhưng tại sao chứ? Charltonbury đã nổi tiếng từ thời xa xưa. Tổ tiên nhà Windlesham có được nó từ thời nữ hoàng Elizabeth. Trở thành chủ nhân của Charltonbury là một điều không thể bỏ qua trong xã hội. Và Windlesham là một trong những người hấp dẫn nhất ở nước Anh này.
Lẽ thường anh ấy không nên quan trọng hóa Wode như thế… Nó không đời nào so sánh được với Charltonbury.
À, nhưng Wode là của cô kia mà! Cô đã nhìn thấy nó, mua lại nó, xây dựng và trang hoàng lại cho nó, đổ không tiếc tiền vào nó. Wode là sở hữu của cô – là vương quốc của riêng cô.
Nhưng nếu cô kết hôn với Windlesham thì việc đó sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Họ sẽ làm gì với hai lãnh thổ này? Giữa hai nơi, dĩ nhiên Wode Hall sẽ bị từ bỏ.
Cô, Linnet Ridgeway, sẽ không còn tồn tại nữa. Cô sẽ trở thành Huân tước phu nhân của Windlesham, mang theo của hồi môn đáng giá về cho Charltonbury và chủ nhân của nó. Cô chỉ là hoàng hậu, chứ không còn là nữ hoàng nữa.
‘Mình thật ngớ ngẩn.’ Linnet tự nhủ với chính mình.
Nhưng cũng không hiểu sao cô lại ghét cái ý nghĩ từ bỏ Wode đến thế…
Và hẳn có điều gì khác đã níu kéo cô?
Giọng nói của Jackie chọt vang lên với sự say mê mù quáng: ‘Tớ sẽ chết nếu không cưới được anh ấy! Tớ sẽ chết. Tớ sẽ chết mất…’
Thật lạc quan, thật chân thành. Cô, Linnet, có cảm giác như thế với Windlesham không? Chắn chắn là không. Có thể cô chưa từng có cảm giác như thế với ai cả. Phải có cảm giác như vậy mới thật tuyệt vời…
Tiếng xe hơi vọng từ ngoài cửa sổ của ngôi nhà.
Linnet rùng mình chán chường. Chắc đó là Jackie và anh chàng của cô ấy. Cô phải ra gặp họ.
Linnet đã đứng sẵn ngay cửa ra vào khi Jacqueline và Simon Doyle bước ra khỏi xe.
Jackie chạy đến với cô: “Linnet! Đây là Simon. Simon, đây là Linnet. Cô ấy là người tuyệt nhất trên thế gian này đấy.”
Trước mắt Linnet là một người thanh niên cao to, vai rộng, đôi mắt màu xanh sẫm, mái tóc nâu quăn dòn, một cái cằm vuông, và một nụ cười giản dị, trẻ thơ và cuốn hút,…
Cô đưa tay ra và chạm phải một bàn tay rắn rỏi, ấm áp… Cô thích cách mà anh ấy nhìn cô, một sự ngưỡng mộ thật sự ngây thơ.
Jackie đã kể với anh ấy rằng cô rất tuyệt vời và rõ ràng là anh nghĩ cô thật tuyệt…
Một cảm giác trìu mến ấm áp của sự mê đắm lan tỏa khắp mạch máu của cô.
Linnet lên tiếng: “Mọi thứ thật đáng yêu phải không? Vào đi, Simon, hãy để tôi long trọng chào đón người quản lý đất mới nào.”
Và khi vừa dẫn đường, Linnet vừa thầm nghĩ: ‘Mình thấy vui quá. Mình thích anh chàng của Jackie… Mình rất thích anh ấy…’
Và một ý nghĩ ập đến: ‘Jackie may mắn thật…’
Tim Allerton ngả người vào chiếc ghế được làm từ lá liễu và ngáp dài nhìn ra biển, đoạn anh liếc nhanh qua mẹ mình.
Bà Allerton đã ngoài năm mươi nhưng trông vẫn còn xuân sắc với mái tóc bạch kim. Bà thường giấu tình yêu thương vô hạn của mình dành con trai bằng việc cong miệng giả vờ đau đớn mỗi khi nhìn thấy nó. Những người hoàn toàn xa lạ đôi khi cũng bị chiêu thức này đánh lừa nhưng Tim lại nhìn thấu nó.
Anh cất tiếng hỏi mẹ: “Mẹ có thực sự thích Majorca không mẹ?”
“Để xem nào.” Bà Allerton ngẫm nghĩ. “Nó rẻ tiền lắm.”
“Và lạnh nữa chứ,” Tim đáp với một cái rùng mình nhè nhẹ.
Tim là một chàng trai trẻ, cao, ốm, với mái tóc sậm màu và một chiếc cằm hơi nhọn. Cái miệng của anh có biểu hiện rất đáng yêu, anh sở hữu một đôi mắt buồn, một cái cằm bạnh, và một đôi tay gầy guộc rất dài.
Cách đây vài năm, sau khi bị đe dọa tính mạng bởi bệnh lao phổi, anh không bao giờ có thể mập lên được nữa. Anh được mọi người biết đến là ‘người để viết’ nhưng trong bạn bè anh, ai cũng hiểu rằng những yêu cầu về việc viết lách không bao giờ được khuyến khích.
“Con đang nghĩ gì vậy, Tim?”
Bà Allerton lanh lẹ hỏi với đôi mắt sáng cùng hàng lông mi nâu trông có vẻ nghi hoặc.
Tim Allerton cười toe trả lời mẹ: “Con đang nghĩ đến Ai Cập.”
Bà Allerton nghi ngờ hỏi lại: “Ai Cập sao?”
“Mẹ à, ở đó mới ấm thật sự. Những đồi cát vàng trải dài. Dòng sông Nile. Con thích được lên thượng nguồn sông Nile, còn mẹ thì sao?”
“Ồ, mẹ thích chứ,” người mẹ đáp lại khô khốc. “Nhưng đi Ai Cập mắc lắm đấy con. Không dành cho người phải đi kiếm từng đồng đâu.”
Tim cười lớn rồi vươn vai đứng dậy. Đột nhiên trông anh tươi tỉnh và hứng khởi hẳn lên. Giọng anh đầy phấn khích.
“Mẹ yên tâm. Con sẽ lo chi phí cho chuyến đi. Con có đầu tư vào thị trường chứng khoán. Sáng nay con mới được nghe những kết quả rất khả quan.”
Bà Allerton hỏi lại ngay: “Sáng nay sao? Con chỉ mới nhận một lá thư và nó…”
Bà chợt im bặt.
Tim nhất thời trông có vẻ lưỡng lự không biết là nên vui hay buồn. Nhưng sự vui sướng đã chiến thắng.
“Và tin đó đến từ Joanna.” Anh chốt lại một cách vui vẻ. “Đúng đấy mẹ ạ. Mẹ thật là bậc thầy về thám tử. Thám tử lừng danh Hercule Poirot cũng phải dè chừng nếu mẹ đi theo nghề này đó.”
Bà Allerton tỏ vẻ đau khổ.
“Mẹ chỉ tình cờ thấy cái mảnh giấy viết tay đó…”
“Và mẹ không biết đó là thông tin của nhà môi giới chứng khoán hay sao? Cũng đúng thôi. Vì thực sự là hôm qua con có nghe lỏm họ nói chuyện. Thật tội nghiệp, tuồng chữ của Joanna thật dễ nhận ra – nó ngoằn ngoèo trên cái phong bì như một con nhện say rượu vậy.”
“Thế Joanna đã nói gì? Có tin tức gì mới không?”
Bà Allerton cố gắng giữ giọng thật bình tĩnh. Mối quan hệ giữa con trai bà và đứa cháu thứ hai, Joanna Southwood, thường làm cho bà cảm thấy khó chịu. Nhưng khi bà đặt mình vào hoàn cảnh đó, bà thấy ‘không có điều gì bất thường’ cả. Bà chắc chắn là không có gì. Tim chưa bao giờ có rung động tình cảm gì với Joanna, và ngược lại cô cũng vậy. Sự hấp dẫn giữa hai bên dường như chỉ dựa trên những lần tán dóc, cùng có nhiều bạn bè, và sở hữu chung nhiều thói quen. Cả hai đều thích con người và bàn tán về họ. Thật ra, Joanna có một cái miệng lươn lẹo.
Không phải là vì bà Allerton sợ Tim sẽ yêu Joanna, nhưng bà thường thấy bản thân mình trở nên cứng rắn hơn khi có mặt Joanna hay khi những lá thư của cô được gởi đến.
Đó còn là một cảm giác khác khó mà định nghĩa – có thể là sự ghen tị về niềm vui mà Tim thường cảm nhận được trong tầng lớp của Joanna. Mẹ con anh là một cặp đồng hành ăn ý khi mà việc để ý một người phụ nữ nào đó của Tim đều làm bà Allerton phải giật mình đôi chút. Bà cũng thấy vui khi sự hiện diện của bà trong những dịp đó đã dựng lên hàng rào ngăn cách giữa hai người thuộc thế hệ trẻ này. Thường thì bà sẽ hăng hái tham gia vào cuộc trò chuyện của hai đứa, và với sự có mặt của bà, câu chuyện của chúng đưa đẩy hơn, và dường như có liên quan đến bà một cách có chủ ý như thể đó là điều bắt buộc. Hẳn nhiên, bà Allerton không thích Joanna Southwood. Bà cho rằng cô không chân thật, là người cầu kỳ và giả tạo. Bà tự thấy khó mà ngăn mình khỏi nói ra những điều như thế.
Để đáp lại thắc mắc của mẹ, Tim lôi lá thư từ trong túi ra và liếc qua nó. Mẹ anh nhận ra đó là một lá thư khá dài.
Anh liền giải thích: “Không có gì nhiều cả, mẹ ạ. Nhà Devenish đang chuẩn bị ly hôn. Monty bị phạt vì dám lái xe trong lúc say xỉn. Windlesham đã đi Canada. Dường như anh thật sự suy sụp khi bị Linnet Ridgeway từ chối. Cô ấy chắn chắn sẽ cưới người quản lý đất này.”
“Thật là kỳ lạ! Anh ta có ghê gớm lắm không?”
“Không, không, không phải vậy đâu. Anh ấy là người của dòng họ Doyle thuộc miệt Devonshire. Dĩ nhiên là không có đồng nào – và thực ra thì anh ta đã đính hôn với một trong những người bạn thân nhất của Linnet. Mặt dày thật đấy.”
“Mẹ không nghĩ đó là việc hay ho đâu.” Bà Allerton tuôn luôn một hơi dài.
Tim nhìn mẹ một cách trìu mến.
“Con biết, mẹ ơi. Mẹ không đồng tình với việc cướp chồng của người khác.”
“Thời của mẹ, mọi người có chung các chuẩn mực,” bà Allerton đáp. “Đó là việc rất hay! Ngày nay những người trẻ chỉ nghĩ là họ phải làm những gì mà họ cho là đúng thôi.”
Tim mỉm cười. “Họ không chỉ nghĩ thôi đâu. Họ thực hiện luôn ấy chứ. Như chồng Linnet Ridgeway đấy!”
“Ừ, mẹ thấy ghê sợ thật!”
Tim nháy mắt với mẹ.
“Vui lên nào, mẹ lẩm cẩm của con! Chí ít có con đồng ý với mẹ. Dù gì thì con vẫn chưa lấy vợ hay người yêu của người khác mà.”
“Mẹ tin rằng con sẽ không bao giờ làm những chuyện như thế,” bà Allerton trả lời và tự hào. “Mẹ nuôi dưỡng con nên người mà.”
“Thế thì công này là của mẹ rồi, không phải của con.”
Anh cười chế giễu mẹ khi gấp lại lá thư và cất nó đi. Chợt bà Allerton nghĩ: ‘Nó cho mình coi hầu hết các lá thư. Nhưng nó chỉ kể một số đoạn trong thư của Joanna cho mình nghe mà thôi.’
Nhưng bà bỏ ý nghĩ không đáng có ấy qua một bên, và quyết định từ rày về sau sẽ cư xử như một quý bà lịch thiệp.
Rồi bà hỏi: “Joanna có tận hưởng cuộc sống không?”
“Cũng bình thường mẹ ạ. Cô ấy đang tính mở một cửa hàng thức ăn ở Mayfair.”
Bà Allerton có vẻ nắm bắt câu chuyện: “Con bé luôn nói chuyện nỗ lực vươn lên, nhưng nó đi khắp mọi nơi và ngốn bộn tiền vào chuyện áo quần. Lúc nào nó cũng ăn mặc đẹp.”
“À, đúng vậy,” Tim trả lời. “Cô ấy có thể không phải tự trả tiền những thứ đó đâu. Không, mẹ ạ, con không có ý nói về những quan niệm cũ trong lòng mẹ. Thật ra con chỉ muốn nói là cô ấy không thanh toán các hóa đơn của mình thôi.”
Bà Allerton thở dài.
“Mẹ cũng không hiểu sao người ta có thể làm như thế được.”
Tim đáp lại: “Đó là một món quà đặc biệt, mẹ à. Nếu mẹ thích hàng hiệu, mà lại không có tiền, người ta sẽ tặng cho mẹ một khoản nào đó.”
“Đúng, nhưng cuối cùng thì con cũng sẽ phải nộp đơn xin phá sản thôi, như ông George Wode đáng thương ấy.”
“Mẹ thương cảm cái gã bán ngựa đó vì ông ta đã gọi mẹ là đóa hồng tại buổi khiêu vũ vào năm 1879 phải không.”
Bà Allerton phật ý: “Mẹ không phải sinh vào năm 1879, Ông George đó tính rất dễ thương và mẹ không để con gọi ông ấy là gã bán ngựa đâu.”
“Vậy à, con nghe rất nhiều chuyện tiếu lâm về ông ấy từ những người biết chuyện đó.”
“Con và Joanna không chú ý đến những gì bọn con nói về người khác cả; nếu cứ cay độc như thế, nó sẽ ảnh hưởng về sau đấy.”
Tim ngước mắt nhìn mẹ.
“Mẹ à, mẹ nóng lên rồi kìa. Con không biết là ông Wode ấy lại là thần tượng của mẹ.”
“Con không biết ông ấy đã khó khăn thế nào đâu khi bán Wode Hall đi. Ông ấy thật sự yêu mảnh đất ấy.”
Tim nén không đáp trả lại. Cuối cùng, anh đang đánh giá ai cơ chứ? Thay vào đó, anh trả lời một cách nghiêm túc: “Mẹ biết đấy, con nghĩ mẹ nói không sai. Linnet đã mời ông Wode xuống và xem cô ấy có thể làm được gì cho mảnh đất, nhưng ông ta đã từ chối một cách thô lỗ.”
“Dĩ nhiên. Cô ta phải biết mình nên làm gì hơn là hỏi ông ấy chứ.”
“Và con tin là ông ta có ác cảm với Linnet – con người ấy vẫn thường lầm bầm chửi rủa mỗi khi thấy cô ấy. Con không thể chịu nổi việc Linnet trả giá quá cao cho mảnh đất sâu mọt ấy.”
“Con không thể hiểu chuyện đó sao?” Bà Allerton cao giọng.
Tim từ tốn trả lời: “Nói thật với mẹ là con không hiểu. Tại sao cứ sống trong quá khứ hoài vậy? Tại sao cứ bám víu vào những chuyện xa xưa?”
“Thế ở địa vị của họ, con sẽ làm được gì nào?”
Anh nhún vai. “Vui mừng chẳng hạn. Cảm giác mới mẻ. Tận hưởng cuộc sống hôm nay, không quan tâm những gì xảy đến trong những ngày sắp tới. Thay vì thừa kế một mảnh đất không có lợi ích nào thì vui với việc làm ra tiền cho bản thân – bằng chính khối óc và tài năng của mình.”
“Phải là một phi vụ thành công trên thị trường chứng khoán chứ gì!”
“Tại sao không?” Tim cười vang.
“Thế còn việc thua lỗ thì sao?”
“Mẹ ơi, cái đó khó nói lắm. Và chẳng thích hợp với hôm nay gì cả… Kế hoạch đi Ai Cập sẽ như thế nào đây mẹ?”
“À…”
Anh cười với mẹ và cắt ngang: “Coi như xong nha mẹ. Cả hai mẹ con ta đều muốn đi Ai Cập.”
“Thế con tính khi nào thì đi được?”
“Ồ, tháng tới ạ. Tháng giêng là thời gian đẹp nhất để đến đó. Chúng ta sẽ thưởng thức bầu không khí sảng khoái ở khách sạn trong vài tuần lễ.”
“Kìa, Tim,” bà Allerton trách rồi nói tiếp. “Mẹ e rằng mẹ đã lỡ hứa với bà Leech chuyện con sẽ đến sở cảnh sát cùng bà ấy. Bà ấy không biết tiếng Tây Ban Nha.”
Tim nhăn mặt.
“Có phải chuyện chiếc nhẫn của bà ấy không? Viên hồng ngọc của con gái kẻ tham lam đó à? Có phải bà ấy vẫn cứ khăng khăng cho rằng nó bị đánh cắp? Con sẽ đi nếu mẹ muốn, nhưng nó chỉ tốn thời gian vô ích mà thôi. Bà ấy sẽ lôi người hầu gái không may vào rắc rối cho mà xem. Ngày hôm đó, chính mắt con đã trông thấy rõ ràng chiếc nhẫn trên tay bà ấy khi bà ấy bước xuống biển. Bà ấy không nhận ra là nó đã rớt xuống nước thôi.”
“Bà ấy khẳng định là đã tháo nó ra và để nó trên bàn trang điểm.”
“Không phải đâu. Chính con thấy nó mà. Người đàn bà đó thật là ngu ngốc. Thật ngu xuẩn làm sao khi đi biển vào tháng mười hai và cho rằng nước biển ấm áp chỉ vì mặt trời bất chợt ló dạng. Dù gì đi nữa, ngay cả những phụ nữ khỏe mạnh cũng không được đi tắm; trông họ thật mất điểm trong mấy bộ đồ bơi ấy.”
Bà Allerton lẩm bẩm: “Mẹ nghĩ mẹ nên từ bỏ việc tắm biển.”
Tim cười phá lên.
“Mẹ đó hả? Mẹ bỏ mấy thứ nhí nhố và nghỉ ngơi đi.”
Bà Allerton thở dài rồi trả lời: “Ước gì có thêm vài người trẻ nữa ở đây với con.”
Tim Allerton lắc đầu, quả quyết: “Con không cần. Con và mẹ có thể vui vẻ cùng nhau mà không cần ai khác.”
“Nếu Joanna ở đây thì con sẽ thích mà.”
“Con không muốn.” Đột nhiên giọng Tim trở nên kiên quyết. “Vấn đề này thì mẹ hoàn toàn sai rồi. Joanna giúp con vui vẻ, nhưng thực sự con không thích cô ấy, và con thấy căng thẳng mỗi lần cô ấy luẩn quẩn bên cạnh con. Con thật sự biết ơn vì cô ấy không ở đây. Con cũng sẵn sàng đồng ý nếu con không bao giờ gặp Joanna nữa.”
Rồi anh thêm vào bằng giọng hết sức nhỏ: “Trên trái đất này chỉ có một người phụ nữ mà con thật sự kính trọng và ngưỡng mộ thôi, và con nghĩ, hỡi quý bà Allerton, mẹ biết rất rõ người phụ nữ ấy là ai.”
Mẹ anh đỏ bừng mặt và cảm thấy bối rối.
Tim chân thành nói: “Khắp thế giới này không có nhiều phụ nữ tốt đâu mẹ. Nhưng mẹ là một người trong số những người đó.”
Trong căn hộ nhìn ra công viên trung tâm tại thành phố New York, bà Robson thảng thốt nói: “Không phải dễ thương thế sao! Con là người con gái may mắn nhất đó, Cornelia.”
Cornelia Robson, một cô gái to lớn vụng về với đôi mắt nâu, lập tức đỏ mặt.
“Dạ, thật là tuyệt vời!” Cô đáp nhát gừng.
Quý bà lớn tuổi Van Schuyler tựa đầu một cách thoải mái với thái độ đúng mực dành cho những mối quan hệ lỏng lẻo. “Cháu luôn mơ về một chuyến đi đến Châu Âu,” Cornelia thở dài, “nhưng cháu có cảm giác là mình chả bao giờ đến được đó cả.”
“Cô Bowers dĩ nhiên sẽ đi cùng với dì như thường lệ,” bà Van Schuyler cho biết, “nhưng với tư cách là một người bạn, dì thấy cô ấy còn nhiều hạn chế – rất nhiều hạn chế. Và Cornelia có thể giúp dì rất nhiều việc nhỏ.”
“Cháu rất thích, dì Marie.” Cornelia tỏ ra phấn khởi.
“Tốt, tốt, vậy là quyết định xong nhé,” bà Van Schuyler trả lời. “Giờ cháu chạy đi kiếm cô Bowers đi. Đến giờ uống rượu pha trứng của dì rồi.”
Khi Cornelia rời khỏi, mẹ cô nói: “Em Marie thân mến, chị thật sự rất biết ơn em! Em biết đó, chị nghĩ Cornelia đã phải chịu đựng nhiều từ những thất bại trong cuộc sống. Điều đó làm cháu nó cảm thấy xấu hổ. Giá mà chị có đủ khả năng cho cháu đi các nơi – nhưng chị thấy mọi thứ cứ như thế nào ấy kể từ khi Ned mất.”
“Em rất vui khi giúp được cháu,” bà Van Schuyler trả lời. “Cornelia là một đứa khéo léo dễ thương, sẵn sàng chạy việc lặt vặt, và không ích kỷ như một số người trẻ ngày nay.” Bà Robson đứng dậy hôn lên gương mặt đã nhăn nheo và có phần vàng vọt của người họ hàng giàu có của mình.
Bà thành thật: “Chị biết ơn em hơn bao giờ hết.”
Sau đó nơi cầu thang, bà gặp một người phụ nữ cao trông dễ thương đang mang một ly nước sủi bọt màu vàng.
“Ô, cô Bowers, thế cô chuẩn bị đi châu Âu phải không?”
“Vâng, bà Robson, có chuyện gì không ạ?”
“Thật là một chuyến đi tuyệt vời!”
“À, vâng, tôi nghĩ chuyến đi sẽ rất vui.”
“Nhưng trước giờ cô đã đi nước ngoài chưa?”
“Ô, có chứ bà Robson. Tôi đã đi Paris mùa thu vừa rồi với bà Van Schuyler. Nhưng tôi chưa từng tới Ai Cập.”
Bà Robson lưỡng lự.
“Tôi thực sự mong sẽ không có vấn đề gì xảy ra.”
Bà Robson hạ giọng xuống. Tuy nhiên cô Bowers vẫn giữ giọng tỉnh rụi trả lời: “Ồ, không, bà Robson; tôi sẽ sắp xếp ổn thỏa mọi việc. Tôi thường coi chừng kỹ lắm.”
Tuy nhiên khi bà Robson tiếp tục bước xuống cầu thang, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét hồ nghi.
Ở văn phòng dưới phố, ông Andrew Pennington vừa mở hộp thư cá nhân ra xem. Bất chợt ông nắm chặt tay và giộng mạnh xuống bàn; gương mặt ông trở nên đỏ bừng và hai mạch máu to nổi giần giật trước trán, ông nhấn cái chuông trên bàn, và sau đó, một người thư ký mặt mày sáng sủa xuất hiện nhanh chóng.
“Nói ông Rockford vô đây ngay.”
“Vâng, thưa ông Pennington.”
Một vài phút sau, đồng nghiệp của Pennington là Sterndale Rockford bước vào văn phòng. Hai người đàn ông không khác nhau là mấy – đều cao lớn, vai rộng, mái tóc nâu với gương mặt nhẵn nhụi sáng láng.
“Có việc gì thế, Pennington?”
Pennington ngước mắt lên khỏi lá thư đang đọc và trả lời: “Linnet đã kết hôn…”
“Cái gì?”
“Ông nghe tôi nói rồi đấy! Linnet Ridgeway đã kết hôn!”
“Làm sao? Khi nào vậy? Tại sao chúng ta lại không biết gì về chuyện này nhỉ?”
Pennington liếc quyển lịch ở trên bàn.
“Khi viết lá thư này thì cô ấy chưa làm đám cưới, nhưng bây giờ thì đã xong rồi. Sáng ngày mùng bốn. Chính là hôm nay đấy.”
Rockford ngồi phịch xuống ghế.
“Trời! Không có thông báo trước gì cả! Không có gì cả sao? Ai là chú rể thế?”
Pennington xem lại lá thư một lần nữa.
“Doyle. Simon Doyle.”
“Anh ta là người như thế nào? Có bao giờ nghe nhắc đến anh ta chưa?”
“Chưa. Cô ấy không tiết lộ nhiều…” Ông lướt qua các dòng chữ viết tay bị xéo lên trên nhưng rõ ràng. “Tôi chợt nghĩ hình như có vấn đề gì đó ẩn chứa phía sau cái đám cưới này… Nhưng không quan trọng lắm. Điểm chính yếu là cô ấy đã kết hôn.”
Ánh nhìn của hai người đàn ông chạm vào nhau. Rockford gật đầu đồng ý.
“Việc này cần phải được làm sáng tỏ.” Ông thốt lên một cách yếu ớt.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì đây?”
“Tôi hỏi ông kia mà.”
Hai người ngồi lặng im. Rồi Rockford cất tiếng: “Đã có kế hoạch gì chưa?”
Pennington từ tốn trả lời: “Con tàu Normandie ra khơi ngày hôm nay. Một trong hai ta phải bắt kịp nó.”
“Ông điên rồi à! Ông có kế hoạch gì vậy?”
Pennington bắt đầu hé mở: “Mấy cha luật sư người Anh…” và rồi dừng lại.
“Họ thì sao! Chắc chắn là ông không qua tới đó để giải quyết họ chứ? Ông khùng thật rồi!”
“Tôi không có nói là ông – hoặc tôi – sẽ đi Anh.”
“Thế thì vấn đề là gì đây?”
“Linnet sẽ đi hưởng tuần trăng mật ở Ai Cập. Có thể sẽ mất ít nhất là một tháng để tới đó…”
“Ơ, Ai Cập à?”
Rockford suy nghĩ và khi ngước mắt lên, ông bắt gặp ánh mắt của Pennington.
Rồi ông nói tiếp: “Ai Cập – đó là ý của anh à!”
“Đúng – một cuộc gặp tình cờ. Ở chuyến đi đó. Linnet và phu quân – cùng không khí trăng mật. Việc đó có thể thực hiện được.”
Rockford nghi ngờ: “Linnet ương bướng lắm, cô ấy… nhưng…”
Pennington nhẹ nhàng tiếp: “Tôi nghĩ sẽ có cách xử lý được thôi.”
Hai đôi mắt lại giao nhau lần nữa. Rockford đồng ý. “Được thôi, ông anh.”
Pennington nhìn đồng hồ.
“Chúng ta phải gấp rút chọn ai sẽ đi đây.”
Rockford nhanh nhảu: “Ông chứ ai nữa. Linnet luôn có cảm tình với ông mà. ‘Chú Andrew.’ Đó là giấy thông hành đấy.”
Mặt Pennington trở nên cương cứng và đáp: “Tôi hi vọng có thể thay đổi được tình hình.”
Người bạn của ông đáp lại: “Ông phải làm được. Tình huống nguy cấp rồi…”
William Carmichael lên tiếng nói với người trẻ tuổi gầy yếu đang mở cửa: “Gọi anh Jim đến chỗ tôi nhé.”
Jim Fanthorp bước vào phòng và nhìn ông chú của mình đầy thắc mắc. Người đàn ông ngẩng mặt lên và vừa gật đầu chào vừa làu bàu.
“Hừ, cháu đây rồi.”
“Chú gọi cháu ạ?”
“Nhìn cái này đi.”
Người cháu ngồi xuống ghế và kéo đống giấy tờ về phía mình. Người chú nhìn đứa cháu và hỏi: “Thấy sao?”
Người cháu lập tức trả lời: “Trông có vẻ đáng nghi, thưa chú.”
Người bạn già của Carmichael, Grant & Carmichael lần nữa lại phát ra âm thanh lầm bầm quen thuộc.
Jim Fanthorp đọc lại lá thư vừa được gởi tới bằng đường hàng không từ Ai Cập:
Thật là vô duyên khi ngồi viết thư trong một ngày như thế này. Chúng tôi đã trải qua một tuần Ở Mena House và làm chuyến du ngoạn đến Fayum. Ngày tới chúng tôi sẽ đi tàu hơi nước lên thượng nguồn sông Nile tới Luxor và Assuan, và có thể là Khartoum. Sáng nay trên đường tới đại lý Cook để lấy vé, các ông có biết là chúng tôi đã gặp ai không? – người quản lý tài chính của chúng tôi, Andrew Pennington. Tôi nghĩ ông đã gặp ông ấy cách đây hai năm khi ông ấy sang thăm. Tôi không biết là ông ấy đi Ai Cập và ông ấy cũng thế! Mà ông Pennington cũng không biết là tôi đã kết hôn! Ông ấy không nhận được lá thư tôi gởi thông báo cuộc hôn nhân của mình, ông Pennington thật ra cũng đi cùng chuyến lên thượng nguồn sông Nile như chúng tôi. Có phải đó là sự tình cờ không? Cám ơn ông rất nhiều vì những gì ông đã làm trong thời gian bận rộn này. Tôi…
Khi người cháu chuẩn bị lật sang trang, ông Carmichael lấy lại lá thư.
“Thế là đủ rồi. Phần còn lại không quan trọng. Cháu nghĩ sao?” Ông hỏi.
Người cháu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “À – cháu nghĩ – không phải là sự tình cờ…”
Người kia gật đầu đồng ý.
“Cháu có thích đi một chuyến tới Ai Cập không?” Ông thốt lên.
“Có nên không chú?”
“Chú nghĩ chúng ta không nên lãng phí thời gian nữa.”
“Nhưng tại sao lại là cháu chứ?”
“Dùng đầu óc của mình đi chú nhóc, hãy suy nghĩ. Linnet Ridgeway chưa bao giờ gặp mặt cháu; và Pennington thì càng không. Nếu cháu đi máy bay thì có thể đến đó kịp lúc đấy.”
“Cháu… cháu không thích.”
“Có thể cháu không thích… nhưng cháu phải đi.”
“Có cần thiết không chú?”
Ông Carmichael trả lời: “Theo ý chú, điều này rất quan trọng.”
Bà Otterbourne chỉnh lại chiếc khăn choàng quấn quanh đầu dệt bằng nguyên liệu tự nhiên rồi nói: “Mẹ thật không hiểu tại sao chúng ta lại không đi Ai Cập nhỉ. Mẹ chán Jerusalem lắm rồi.”
Bà nói tiếp khi cô con gái không trả lời: “Ít nhất con phải trả lời khi có người nói chuyện với con chứ.”
Rosalie Otterbourne đang nhìn vào một gương mặt trên tờ báo. Dòng chữ dưới tấm hình ghi: Phu nhân Simon Doyle, trước khi kết hôn được biết đến là người đẹp nổi tiếng Linnet Ridgeway. Cặp đôi này đang hưởng kì nghỉ tại Ai Cập.
“Mẹ muốn đi Ai Cập phải không?”
“Mẹ muốn chứ,” bà Otterbourne đáp lại ngay. “Mẹ thấy những người ở đây đối xử với chúng ta chẳng đàng hoàng chút nào. Việc có mặt của chúng ta ở đây là phước cho họ lắm rồi – đáng lẽ mình phải được giảm giá đặc biệt chứ. Khi mẹ bóng gió với họ thì họ lại hết sức xấc xược – quá láo xược ấy chứ. Mẹ nói đúng những gì mẹ nghĩ về họ.”
Đứa con gái thở dài và nói: “Nơi nào cũng giống nhau thôi mẹ ơi. Ước gì mẹ con mình có thể đi ngay lập tức.”
Bà Otterbourne tiếp: “Sáng nay tên chủ láo toét đã nói với mẹ là các phòng đã được đặt trước hết rồi và yêu cầu chúng ta dọn đi trong vòng hai ngày.”
“Vậy chúng ta phải đi đâu đó.”
“Không hẳn. Mẹ đã sẵn sàng chiến đấu vì quyền lợi của mình.”
Rosalie lẩm bẩm: “Con nghĩ chúng ta có thể đi Ai Cập. Thật sự cũng không có khác biệt mấy.”
“Dĩ nhiên nó không phải là vấn đề sống hay chết rồi.” Bà Otterbourne tán thành.
Nhưng bà đã sai – thật sự đó là vấn đề giữa sự sống và cái chết.
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile