Books are a uniquely portable magic.

Stephen King

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 457 / 48
Cập nhật: 2020-04-04 20:30:41 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Lời Cầu Cứu
hín giờ năm phút sáng hôm sau, tôi bước vào phòng sinh hoạt chung để ăn sáng. Anh bạn Poirot của tôi đang đập quả trứng thứ hai, vẫn chính xác đến từng phút như mọi khi.
Anh cười tươi khi tôi bước tới.
“Anh ngủ ngon chứ hả? Anh đã lại sức sau chuyến đi dài kinh khủng chưa? Thật là kỳ diệu khi sáng nay anh vẫn tới gần như chuẩn xác. PardonXin thứ lỗi, nhưng cà vạt của anh không được cân. Cho phép tôi chỉnh lại nhé.”
Ở đâu đó trong các ghi chép khác, tôi đã mô tả Hercule Poirot. Một người đàn ông nhỏ bé mà phi thường! Cao chừng hơn 1 mét 60 phân, đầu hình quả trứng hơi nghiêng về một bên, mắt xanh lá cây, sáng lấp lánh mỗi khi phấn khích, ria mép cương nghị kiểu nhà binh, đặc vẻ nghiêm trang! Trông anh gọn gàng và ăn vận chỉnh tề. Anh tuyệt đối say mê sự ngăn nắp. Sẽ là một cực hình với anh chàng nhỏ bé ấy khi nhìn thấy một món đồ trang sức bị lệch, một đốm bụi, hay quần áo ai đó hơi chút xộc xệch, cho tới khi anh có thể xoa dịu bản thân bằng cách chỉnh sửa lại những thứ đó. Anh tôn sùng Trật tự và Phương pháp. Anh tỏ rõ sự coi thường đối với bằng chứng hữu hình, như dấu chân hay tàn thuốc lá, và luôn tâm niệm rằng, nếu tách riêng những bằng chứng đó, chúng sẽ không bao giờ giúp cho thám tử giải quyết được vấn đề. Những lúc như thế, anh sẽ gõ nhẹ lên quả đầu hình trứng của mình với vẻ ngạo mạn ngông nghênh, và tự đắc nói: “Công việc thực sự được thực hiện từ bên trong. Chất xám – lúc nào cũng phải nhớ tới chất xám, mon amibạn thân mến.”
Tôi ngồi vào chỗ, và để đáp lại màn chào hỏi của Poirot, tôi uể oải nhận xét rằng chuyến vượt biển một giờ đồng hồ từ Calais tới Dover còn xa mới xứng với tính từ kinh khủng.
“Thư từ có gì thú vị không?” tôi hỏi.
Poirot lắc đầu, vẻ không hài lòng.
“Tôi chưa kiểm tra mấy lá thư, nhưng dạo gần đây chẳng có tin tức thú vị gì đến cả. Chẳng hề có những vụ phạm tội cao tay, những tội ác được tính toán tài tình.”
Anh chán nản lắc đầu, còn tôi thì cười vang.
“Vui lên đi, Poirot, vận may rồi sẽ thay đổi thôi. Mở thư ra đi. Biết đâu lại có một vụ đình đám đang dần lộ ra ở phía chân trời.”
Poirot mỉm cười, lấy ra một con dao mở thư gọn gàng, rọc mấy cái phong bì đặt cạnh đĩa.
“Một hóa đơn. Một hóa đơn nữa. Có vẻ về già tôi lại thành ra thích tiêu xài. Aha! Thư của Japp.”
“Có gì?” tôi dỏng tai lên. Thanh tra viên của Scotland Yard đã từng không dưới một lần giới thiệu cho chúng tôi những vụ án thú vị.
“Ông ta chỉ đơn thuần cảm ơn tôi – theo đúng phong cách của ông ấy – vì một điểm nhỏ trong vụ Aberystwyth, nhờ điểm ấy mà tôi đã giúp cho ông ta nhận rõ được vấn đề. Thật vui khi giúp ích được cho ông ta.”
Poirot tiếp tục điềm tĩnh đọc thư: “Ông ta gợi ý rằng tôi nên có một buổi giảng cho hội Hướng đạo sinh ở khu của chúng ta. Nữ bá tước Forfanock sẽ rất biết ơn nếu tôi gọi điện và đến gặp bà ấy. Chắc chắn lại một vụ chó cưng nữa cho mà xem! Và giờ là thư cuối đây. Ah…!”
Tôi ngẩng lên, nhận ngay ra sự thay đổi trong giọng nói của anh. Poirot đang đọc rất chăm chú. Một phút sau, anh ném tờ giấy về phía tôi.
“Không bình thường chút nào, mon amibạn thân mến. Anh tự đọc đi.”
Lá thư được viết trên một thứ giấy ngoại, nét chữ đậm, sắc nét:
Biệt thự Geneviève,
Bờ biển Merlinville,
Pháp.
Thưa ngài,
Tôi đang cần sự giúp đỡ của một thám tử, và, vì nhiều lý do mà tôi sẽ giải thích sau, tôi không muốn gọi cảnh sát. Tôi đã được nghe kể nhiều về ngài, và tất cả các câu chuyện đều cho thấy rằng ngài không chỉ là một người rất mực tài năng, mà còn là người biết giữ bí mật. Tôi không muốn kể chi tiết trong thư, nhưng, vì bí mật mà tôi đang giữ, mạng sống tôi đang bị đe dọa từng ngày. Tôi tin rằng mọi nguy hiểm này rất to lớn, và vì thế, tôi cầu xin ngài lập tức sang Pháp. Nếu ngài đánh điện báo cho tôi khi nào ngài sẽ tới nơi, tôi sẽ cử một chiếc xe đến Calais đón ngài. Tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu ngài khước từ tất cả các vụ khác mà ngài đang xử lý, và tập trung toàn bộ thời gian, công sức cho tôi. Tôi sẵn sàng chi trả bất cứ khoản chi phí cần thiết nào. Có thể tôi sẽ cần đến sự giúp đỡ của ngài trong một khoảng thời gian đáng kể, có lẽ ngài cũng sẽ cần phải tới Santiago, nơi tôi đã sống vài năm. Tôi rất sẵn lòng chi trả bất cứ khoản phí nào mà ngài đề ra.
Xin được cam đoan với ngài lần nữa rằng đây là một vấn đề rất khẩn thiết.
Kính thư,
P.T. Renauld.
Bên dưới chữ ký là một dòng loằng ngoằng viết vội, gần như không đọc nổi: Vì Chúa, xin ngài hãy tới đây!
Tim đập dồn dập, tôi trao lại lá thư cho Poirot.
“Chờ mãi!” tôi thốt lên. “Đây rõ ràng là chuyện gì đó không bình thường.”
“Phải, đúng vậy,” Poirot trầm ngâm đáp.
“Tất nhiên là anh sẽ đi chứ?” tôi tiếp.
Poirot gật đầu. Anh đang đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, có vẻ như anh đã quyết định và liếc lên đồng hồ, nét mặt vô cùng trang nghiêm.
“Gặp anh sau nhé, anh bạn, không có thì giờ để lãng phí đâu. Tàu tốc hành Continental sẽ rời Victoria lúc mười một giờ. Đừng có xúc động quá thế, vẫn còn nhiều thời gian. Chúng ta có thể có mười phút để thảo luận. Anh sẽ đi cùng tôi, n’est-ce pasphải không?”
“À…”
“Anh đã nói với tôi là ông chủ của anh không cần tới anh trong vài tuần tới.”
“Ồ, đúng là thế. Nhưng ngài Renauld đã ám chỉ rằng việc này tuyệt đối riêng tư…”
“Chà chà chà! Chuyện đó cứ để tôi. À mà, hình như tôi có biết cái tên này ở đâu rồi thì phải?”
“Có một vị triệu phú nổi tiếng ở Nam Mỹ tên là Renauld. Không biết có phải là cùng một người không?”
“Không nghi ngờ gì nữa. Điều đó lý giải vì sao ông ta nhắc tới Santiago. Santiago ở Chile, Chile thì ở Nam Mỹ! Chà, đang tiến triển tốt đấy chứ! À, anh có để ý đến phần tái bút không? Anh có ấn tượng thế nào?”
Tôi suy nghĩ một lát.
“Rõ ràng khi viết thư thì ông ta giữ bình tĩnh rất tốt, nhưng đến cuối, ông ta mất tự chủ và, trong thoáng chốc bốc đồng, ông ta đã nguệch ngoạc dòng chữ tuyệt vọng kia.”
Nhưng ông bạn tôi hăng hái lắc đầu.
“Anh đang sai lầm đấy. Anh có thấy mặc dù mực ở chữ ký thì gần như đen, nhưng màu mực của phần tái bút lại khá mờ nhạt không?”
“Rồi sao?” tôi bối rối.
“Mon Dieu, mon amiLạy Chúa, anh bạn tôi ơi dùng tới chất xám đi chứ. Chẳng phải rất hiển nhiên sao? Ông Renauld viết thư. Không hề thấm mực lá thư, ông ta đọc lại rất kỹ. Đoạn, không hề do bốc đồng, mà có chủ đích, ông ta thêm mấy chữ cuối cùng vào, rồi thấm mực tờ giấy.”
“Nhưng vì sao?”
“ParbleuTrời ơi, để tạo cho tôi cái ấn tượng mà nó đã tạo ra cho anh chứ sao!”
“Sao kia?”
“Mais ouiĐương nhiên – để đảm bảo là tôi sẽ tới! Ông ta đọc lại lá thư và không hài lòng. Nó chưa đủ sức thuyết phục!”
Poirot dừng lại, rồi nhẹ nhàng nói thêm, mắt ánh lên cái tia sáng xanh lá cây lúc nào cũng là dấu hiệu cho sự hào hứng:
“Và như vậy, mon amibạn thân mến, vì phần tái bút được viết thêm vào, không phải do cảm giác hối thúc, mà rất tỉnh táo, lạnh lùng, tức là tình hình đã khẩn cấp lắm rồi, chúng ta phải tới chỗ ông ta sớm nhất có thể.”
“Merlinville,” tôi trầm ngâm lẩm bẩm. “Tôi nghĩ là mình từng nghe đến địa danh này rồi.”
Poirot gật đầu.
“Đó là một nơi nhỏ bé, tĩnh lặng – nhưng thanh nhã! Nó nằm ở quãng giữa Boulogne và Calais. Tôi đoán ông Renauld có một ngôi nhà ở Anh.”
“Phải, ở Rutland Gate, theo như tôi nhớ được. Cũng là một chỗ rộng rãi ở vùng thôn quê, đâu đó ở Hertfordshire. Nhưng thực ra thì tôi biết rất ít về ông ta, ông ta không phải là người giao thiệp rộng. Tôi tin rằng ông ta sở hữu những khoản lợi tức lớn từ Nam Mỹ ở City*, sống chủ yếu ở Chile và Argentina.”
Trung tâm thương nghiệp và tài chính ở London
“Chà, chúng ta sẽ nghe tất cả các chi tiết từ chính ông ta. Nào, thu xếp đồ đạc thôi. Mỗi người một vali nhỏ, rồi bắt taxi tới Victoria.”
Mười một giờ, chúng tôi khởi hành từ Victoria đi Dover. Trước khi đi, Poirot đánh điện báo cho ông Renauld thời gian chúng tôi tới Calais.
“Tôi ngạc nhiên là anh vẫn chưa đầu tư vào mấy chai thuốc chống say sóng đấy, Poirot,” tôi đùa khi nhớ lại cuộc trò chuyện trong bữa sáng của chúng tôi.
Anh bạn tôi, đang còn lo lắng theo dõi thời thiết, quay ra nhìn tôi đầy trách móc.
“Có phải là anh đã quên mất phương pháp xuất sắc nhất của Laverguier rồi không? Tôi luôn thực hành phương pháp của ông ấy. Người ta tự lấy cân bằng cho mình, nếu anh còn nhớ, bằng cách quay đầu từ trái sang phải, hít vào rồi thở ra, đếm đến sáu giữa mỗi nhịp thở.”
“Hừmmm,” tôi phản đối yếu ớt. “Anh thà chịu mệt vì cố tự lấy lại cân bằng và đếm đến sáu cho tới lúc anh đến được Santiago, hay Buenos Aires, hay bất cứ đâu anh cập bến chăng.”
“Quelle idée!Ý tưởng hay đấy! Anh đã tự nghĩ ra là tôi sẽ tới Santiago phải không?”
“Ông Renauld đã đề nghị như vậy trong thư mà.”
“Ông ta không biết đến các phương pháp của Hercule Poirot. Tôi không chạy qua chạy lại, đi hết chuyến này tới chuyến khác và làm cho mình rối beng lên. Công việc của tôi được thực hiện từ bên trong – ở đây,” anh trịnh trọng gõ gõ lên trán.
Như mọi khi, nhận xét này lại khiến tôi ngứa ngáy muốn tranh luận.
“Tốt cả thôi, Poirot, nhưng tôi nghĩ anh đang rơi vào thói quen coi thường quá đáng một số thứ nhất định đấy. Một dấu vân tay đôi lúc cũng dẫn tới việc bắt và kết tội một kẻ giết người.”
“Và rõ ràng, cũng đã từng treo cổ không chỉ một người vô tội,” Poirot lạnh lùng.
“Nhưng chắc chắn là việc nghiên cứu vân tay, dấu chân, tàn thuốc lá, những loại bùn đất, và các đầu mối khác sẽ giúp việc quan sát các chi tiết được tỉ mỉ – tất cả những điều này vô cùng quan trọng mà?”
“Thì phải rồi. Tôi có bao giờ nói khác đâu. Một người quan sát có nghề, một chuyên gia, chắc chắn là rất hữu ích! Nhưng còn những người khác, các loại Hercule Poirot ấy, họ còn trên cả các chuyên gia! với họ, các chuyên gia mang tới dữ kiện, còn họ quan tâm tới phương pháp thực hiện tội ác, logic của nó, trình tự và diễn tiến của các sự kiện; và trên tất cả là tâm lý thực sự của vụ án. Anh từng săn cáo rồi chứ?”
“Thỉnh thoảng, cũng có một chút,” tôi trả lời, hơi hoang mang vì đề tài đổi đột ngột. “Thì sao?”
“Eh bienChà chà, khi săn cáo thì anh cần dùng đến lũ chó, đúng không nào?”
“Chó săn,” tôi nhẹ nhàng chỉnh lại. “Phải, tất nhiên rồi.”
“Nhưng tuy thế,” Poirot lắc lắc ngón tay trước mắt tôi, “anh không leo xuống ngựa, gí mũi xuống đường mà ngửi hít rồi sủa gâu gâu phải không?”
Tôi không kìm được, bật cười sặc sụa. Poirot gật đầu vẻ thỏa mãn.
“Đấy. Việc của chó săn thì cứ để chó săn làm. Ấy thế mà anh lại yêu cầu tôi, Hercule Poirot, tự bêu riếu mình bằng cách bò lăn bò toài – có thể là trên một bãi cỏ ẩm ưgia– để nghiên cứu mấy dấu chân giả định, và xúc chỗ tàn thuốc lá, trong khi tôi không phân biệt được loại nào với loại nào. Cứ nhớ lại những bí ẩn trong vụ Tàu tốc hành Plymouth mà xem. Ông Japp tốt bụng đi điều tra tuyến đường sắt. Khi ông ta trở lại, tôi, không cần phải ra khỏi căn hộ của mình, vẫn có thể nói chính xác ông ta đã tìm được những gì.”
“Vậy anh cho là Japp đã lãng phí thời gian.”
“Không hề, vì tang chứng của ông ấy xác nhận giả thiết của tôi. Nhưng hẳn tôi đã lãng phí thời gian nếu tôi đi tới đó. Cũng giống như những người được gọi là chuyên gia ấy. Hãy nhớ lại việc chứng thực chữ viết tay trong vụ Cavendish. Luật sư bên nguyên khi thẩm vấn thì đưa ra lời khai về những nét tương đồng, luật sư bên bị lại đưa ra bằng chứng chứng tỏ sự khác biệt. Tất cả các ngôn từ đều rất chuyên nghiệp. Còn kết quả thì sao? Là điều chúng ta đều biết ngay từ đầu. Chữ viết rất giống của John Cavendish. Và một đầu óc thiên về tâm lý sẽ đối diện với câu hỏi Tại sao?. Bởi vì đó đúng là chữ của ông ta? Hay bởi vì có người muốn chúng ta nghĩ như vậy? Tôi đã trả lời câu hỏi đó, mon amibạn thân mến, và trả lời đúng.”
Rồi Poirot, sau một hồi im lặng để tạo ấn tượng, ngả người ra sau vẻ hài lòng.
Trên tàu thủy, tôi biết rõ là không nên quấy rầy không gian riêng của ông bạn mình. Thời tiết rất đẹp, và biển lặng như mặt ao, nên tôi chẳng mấy ngạc nhiên khi thấy một Poirot tươi cười cùng tôi dỡ đồ đạc khi cập bến Calais. Một nỗi thất vọng đã chờ sẵn chúng tôi. Không có chiếc xe nào được cử đến đón chúng tôi cả, nhưng Poirot cho là do bức điện của anh bị chuyển chậm.
“Chúng ta sẽ thuê một chiếc xe,” anh vui vẻ nói.
Và một vài phút sau, chúng tôi đã lên đường đi về phía Merlinville trên chiếc xe kẽo kẹt xóc nảy người, món đồ tàn tạ nhất trong những thứ được chất đống lại rồi đem cho thuê.
Tinh thần tôi phơi phới, nhưng anh bạn nhỏ bé lại nghiêm nghị nhìn tôi.
“Anh đúng là kiểu người mà dân Scotland gọi là ‘fey’ đấy, Hastings ạ. Nó là điềm báo cho tai hoạ.”
“Vớ vẩn. Dù thế nào đi nữa thì anh cũng không có cùng tâm trạng với tôi.”
“Không, nhưng tôi thấy lo.”
“Lo điều gì?”
“Tôi không biết. Nhưng tôi có một linh cảm – một điều je ne sais quoitôi không biết nữa!”
Anh nói bằng giọng nghiêm trang tới mức dù không muốn, tôi cũng thấy chột dạ.
“Tôi có cảm giác,” anh chậm rãi nói, “rằng vụ này sẽ rất đình đám – một vấn đề rắc rối dài dòng và không dễ giải quyết.”
Tôi định hỏi anh thêm nữa, nhưng vừa lúc đó, xe vào tới thị trấn Merlinville, và chúng tôi đi chậm lại để hỏi đường tới biệt thự Geneviève.
“Đi thẳng, thưa ngài, đi qua thị trấn. Biệt thự Geneviève cách thị trấn khoảng nửa dặm. Ngài sẽ không thể không nhìn thấy nó. Một dinh thự rất lớn, nhìn ra biển.”
Chúng tôi cảm ơn người chỉ dẫn và tiếp tục lên đường, bỏ thị trấn lại phía sau. Một ngã ba đường khiến chúng tôi phải dừng lại lần thứ hai. Một người nông dân đang chậm rãi tiến về phía chúng tôi, và chúng tôi đợi ông ta lại gần để hỏi đường thêm lần nữa. Có một ngôi biệt thự nhỏ ngay bên đường, nhưng nó quá nhỏ bé và đổ nát, không thể là nơi chúng tôi đang tìm. Trong khi chúng tôi chờ đợi, cánh cổng ngôi nhà khẽ mở và một cô gái bước ra.
Người nông dân đang đi ngang qua chỗ chúng tôi, anh lái xe nhoài người ra hỏi đường.
“Biệt thự Geneviève hả? Thẳng đường này mấy bước nữa thôi, ở bên trái ấy, thưa ngài. Nếu không có đoạn đường vòng thì các ngài đã nhìn thấy nó rồi.”
Người tài xế cảm ơn và khởi động lại xe. Mắt tôi bị hút vào cô gái, cô đứng yên, một tay đặt lên cổng, đang nhìn chúng tôi. Tôi là người ngưỡng mộ cái đẹp, và đây là một người mà không ai có thể đi qua mà không để ý. Rất cao, cân đối như một nữ thần, mái tóc để trần của nàng lấp lánh dưới ánh mặt trời, tôi thề với mình rằng cô là một trong những cô gái đẹp nhất tôi từng thấy. Khi chúng tôi liêu xiêu trên con đường gập ghềnh, tôi ngoái đầu lại ngóng theo nàng.
“Ôi trời ơi, Poirot,” tôi thốt lên, “anh có nhìn thấy vị nữ thần trẻ trung đó không?”
Poirot nhướn mày.
“Ça commence!Lại bắt đầu rồi đấy!” anh ta lầm bầm. “Anh đã được thấy một nữ thần rồi cơ đấy!”
“Nhưng mà, quỷ thật, chẳng phải thế sao?”
“Có thể lắm, tôi không để ý.”
“Có chắc chắn là anh không để ý tới cô ta không?”
“Mon amiBạn thân mến, hiếm khi mà hai người nhìn thấy cùng một thứ lắm. Chẳng hạn, anh nhìn thấy một nữ thần. Còn tôi…,” anh ngần ngừ.
“Sao?”
“Tôi chỉ nhìn thấy một cô gái với ánh mắt lo âu,” Poirot nói bằng giọng ảm đạm.
Đúng lúc đó, xe trờ tới cánh cổng lớn màu xanh và, cùng một lúc, chúng tôi đồng ồ lên. Chắn ngay trước cổng là một viên cảnh sát. Vị này giơ tay cản đường chúng tôi.
“Các ông không qua được.”
“Nhưng chúng tôi muốn được gặp ngài Renauld,” tôi nói to. “Chúng tôi có hẹn trước. Đây là biệt thự của ngài ấy phải không?”
“Phải, thưa ông, nhưng…”
Poirot nghiêng người về phía trước.
“Nhưng sao?”
“Ngài Renauld vừa bị giết sáng nay!”
Án Mạng Trên Sân Golf Án Mạng Trên Sân Golf - Agatha Christie Án Mạng Trên Sân Golf