Butterflies don't know the color of their wings, but human eyes know how beautiful it is. Likewise, you don't know how good you are, but others can see that you are special.

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lục Hương
Biên tập: Little Rain
Số chương: 79
Phí download: 8 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 16576 / 1225
Cập nhật: 2015-11-10 13:37:15 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15: Amame - Chắc Như Mắc Neo Cho Kinh Khí Cầu
omame rất để ý đến việc ăn uống hàng ngày. Rau xanh là món chủ đạo ba bữa ăn mà nàng tự tay chuẩn bị mỗi ngày, còn có thêm cá, chủ yếu là loại cá thịt trắng. Thịt thì chỉ giới hạn ở mức thi thoảng chỉ ăn chút thịt gà. Thực phẩm nàng chỉ chọn loại tươi ngon, hạn chế tối đa các loại gia vị. Tất cả các món nhiều chất béo đều bị loại bỏ, lượng tinh bột được kiểm soát trong giới hạn thích hợp. Khi ăn xa lát, nàng không dùng loại sốt trộn bán sẵn, mà chỉ rưới lên chút dầu ô liu, muối và nước chanh. Không chỉ ăn nhiều rau xanh, nàng còn nghiên cứu tỉ mỉ hàm lượng dinh dưỡng, chú ý phối hợp các loại rau xanh cho cân bằng. Nàng đặt ra một thực đơn đặc biệt của riêng mình, hồi ở câu lạc bộ thể thao, nàng cũng thường được mời đến hướng dẫn ăn kiêng. Câu cửa miệng của nàng là: đừng tính toán calo làm gì! Chỉ cần biết cách chọn đồ ăn chính xác, ăn uống điều độ, thì không cần để ý nhiều đến mấy con số đó.
Nhưng nàng cũng không phải một mực tuân theo cái thực đơn theo kiểu cấm dục chủ nghĩa ấy, những lúc không thể nhịn nổi, nàng cũng xông vào quán ăn gọi một miếng sườn bò, hoặc sườn cừu to tướng. Nàng cho rằng, nếu thỉnh thoảng có lúc thèm món gì đến độ không thể cưỡng lại, nhất định là vì một lý do nào đó cơ thể cần đến món ấy và đang phát tín hiệu yêu cầu. Đơn giản là nàng đang nghe theo tiếng gọi của tự nhiên mà thôi.
Aomame thích uống rượu vang và rượu trắng, nhưng để bảo vệ gan, đồng thời cũng để kiểm soát lượng đường, nàng chú ý không uống quá nhiều, mỗi tuần quy định ba ngày không dùng thức uống có cồn. Đối với Aomame, chỉ tấm thân xác thịt mới là thần điện thiêng liêng nhất, cần phải giữ gìn cho thân thể luôn trong sạch, không nhuốm bụi trần, không bám phải dù chỉ một vết nhơ. Còn việc nơi đó thờ cúng cái gì, lại là một vấn đề hoàn toàn khác, để sau này suy nghĩ cũng chẳng sao.
Cơ thể nàng hiện nay vẫn chưa có vết sẹo lồi nào, chỉ có các cơ bắp chắc nịch. Ngày ngày, nàng đều khỏa thân đứng trước gương, tỉ mỉ xác nhận lại sự thực này. Nàng không phải hạng người si mê thân thể mình, mà ngược lại thì đúng hơn. Bầu vú không được to lắm, hai bên trái phải lại không đối xứng. Lông mu mọc như một bụi cỏ bị cả tiểu đoàn bộ binh hành quân qua giẫm đạp. Mỗi lần nhìn thấy cơ thể mình, nàng không khỏi chau mày. Nhưng dù sao thì cũng không có chỗ thịt thừa nào, muốn lấy ngòn tay véo lên một miếng thịt thừa cũng không thể.
Aomame sống thanh đạm. Nàng tiêu tiền nhiều nhất vào việc ăn uống, chẳng bao giờ tính toán khi mua thực phẩm, mà rượu vang cũng chỉ uống loại thượng hạng. Thỉnh thoảng ra ngoài ăn tiệm, nàng luôn chọn những nhà hàng chế biến chu đáo cẩn thận và cầu kỳ. Ngoài chuyện đó ra, nàng gần như chẳng hề quan tâm đến những sự khác trên đời.
Nàng chẳng để ý đến trang phục, mỹ phẩm và đồ trang sức. Đến câu lạc bộ thể thao làm việc, chỉ cần mặc đại một chiếc quần bò và áo len là đủ. Đằng nào thì khi vào câu lạc bộ, nàng sẽ phải mặc đồ thể thao suốt cả ngày. Tất nhiên, nàng cũng không đeo trang sức. Vả lại, nàng gần như không có cơ hội nào để ăn mặc, trang điểm lộng lẫy. Không có người tình, cũng không có cơ hội hẹn hò với người khác. Sau khi Otsuka Tamaki kết hôn, thì ngay đến cả bạn gái ăn cùng một bữa cơm nàng cũng chẳng còn. Khi kiếm tình một đêm, nàng cũng trang điểm, ăn mặc sao cho hợp thời trang một chút. Nhưng chuyện ấy nhiều lắm cũng chỉ tháng một lần. Không cần quá nhiều quần áo làm gì.
Khi cần thiết, nàng lượn quanh mấy tiệm thời trang ở Aoyama, mua một bộ “Trang phục sát thủ”, rồi chọn thêm bộ trang sức phù hợp, đôi giày cao gót, vậy là xong. Thường ngày, Aomame chỉ đi giày đế bằng, tóc búi ra sau. Sau khi rửa mặt thật kỹ bằng xà phòng, nàng chỉ đánh một lớp phấn mỏng, nhưng làn da lúc nào cũng sáng bóng, nhẵn mịn. Chỉ cần thân thể khỏe mạnh sạch sẽ, ngoài ra nàng không còn ham muốn gì khác.
Từ nhỏ, nàng đã quen với cuộc sống giản gị không màu mè. Cấm dục và tiết chế, đó là những thứ đầu tiên nàng bị thổi vào đầu từ khi biết suy nghĩ. Trong nhà không có thứ gì thừa thãi. “Lãng phí” là hai chữ được dùng với mật độ dày đặc trong nhà nàng. Nhà không có ti vi, không có báo. Ở nhà nàng, thậm chí tin tức cũng là thứ không cần thiết. Thịt và cá hiếm khi xuất hiện trên bàn ăn, Aomame chủ yếu nhờ vào bữa cơm trưa miễn phí ở trường để bổ sung lượng dinh dưỡng cần thiết. Bạn cùng lớp đứa nào cũng chê khó ăn và bỏ mứa bữa trưa, còn nàng thậm chí muốn ăn hết cả phần của người khác.
Nàng hầu như chỉ mặc quần áo cũ của người khác thải ra. Trong giáo đoàn có những buổi trao đổi quần áo kiểu như vậy. Vì thế, ngoài quần áo thể dục nhà trường quy định, cha mẹ chưa bao giờ mua quần áo mới cho nàng và nàng cũng chẳng nhớ mình đã lần nào được mặc quần áo mới và đi giầy đúng cỡ hay chưa nữa. Màu sắc và hoa văn thì vô cùng tệ hại. Nếu vì gia cảnh nghèo khó đến nỗi không thể không sống giản dị như vậy thì là chuyện khác, nhưng nhà Aomame không hề nghèo. Cha nàng là kỹ sư, thu nhập và tài sản đều không dưới mức trung bình của xã hội. Hoàn toàn vì tuân theo giáo lý nên họ mới chọn cuộc sống tối giản như thế.
Nói tóm lại, cuộc sống của nàng và những đứa trẻ bình thường xung quanh khác nhau quá xa, vì vậy có một thời gian dài, nàng chẳng hề có một người bạn. Không có quần áo để mặc lúc đi chơi với đám bạn cùng lớp, mà nàng cũng chẳng có thời gian để đi chơi nữa. Nàng chưa bao giờ được cho tiền tiêu vặt, nếu được mời đến dự tiệc sinh nhật của ai đó (không hiểu là may hay không may, chuyện ấy chưa bao giờ xảy ra), thì nàng thậm chí chẳng mua nổi cả một món quà nhỏ xíu.
Vì vậy mà nàng căm ghét cha mẹ, căm ghét đến tận xương tủy thế giới của họ. Điều nàng muốn là một cuộc sống bình thường như những người khác. Nàng không cần gì xa hoa. Chỉ một cuộc sống bình thường thôi là đủ. Chỉ cần được như vậy, mình chẳng còn mong muốn gì khác, nàng thầm nghĩ. Nàng mong ngóng sao cho mình nhanh lớn lên, để rời xa cha mẹ, sống độc lập một mình theo ý muốn của bản thân. Muốn ăn gì thì ăn, muốn ăn bao nhiêu thì ăn. Được tự do tiêu xài tiền trong ví của mình. Được mặc những thứ quần áo mình thích, đi đôi giày vừa cỡ chân, đến những nơi mình muốn đến. Kết bạn thật nhiều, để rồi trao đổi với nhau những món quà được gói thật đẹp.
Nhưng đến khi trưởng thành, Aomame phát hiện ra một sự thực: điều khiến tâm hồn nàng bình lặng nhất vẫn là cuộc sống cấm dục và tiết chế ấy. Điều nàng tha thiết nhất không phải là ăn mặc đẹp rồi đi chơi với ai đó, mà chỉ là vận đồ thể thao, ngồi một mình trong phòng tĩnh lặng.
Sau cái chết của Tamaki, Aomame xin nghỉ việc ở công ty sản xuất đồ uống thể thao, dọn ra khỏi khu ký túc xá đã ở nhiều năm, thuê một căn hộ có một phòng khách, một phòng ngủ, kèm bếp và buồng vệ sinh ở khu Jiyugaoka. Nhà tuy không lớn, nhưng nhìn qua lại thấy khá rộng. Dụng cụ nhà bếp đầy đủ, nhưng đồ đạc bày biện trong nhà chỉ có mấy món tối thiểu. Những thứ sở hữu cũng ít. Tuy nàng thích đọc sách, nhưng đọc hết quyển nào lại bán ngay quyển ấy cho tiệm sách cũ. Aomame cũng thích nghe nhạc, nhưng không sưu tầm dĩa hát. Dù là thứ gì thì nàng vẫn thấy đau khổ khi sở hữu những vật không ngừng nhiều lên trước mắt. Mỗi lần mua sắm, nàng đều có cảm giác tội lỗi. Trong lòng thầm nhủ thứ này hay thứ kia thực ra không cần thiết lắm. Nhìn quần áo và giày dép trong tủ, nàng lại cảm thấy khó chịu, bực bội. Cuộc sống tự do đầy đủ này nhắc Aomame nhớ đến thủa thiếu thời nghèo khó và mất đi tự do kia một cách châm biếm.
Nàng thường tự hỏi, việc con người dành được tự do rốt cuộc có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ lại là khéo léo thoát khỏi một nhà tù, để rồi tự chui vào một nhà tù lớn hơn?
Mỗi lần nàng tiễn đưa gã đàn ông được chỉ định sang thế giới khác, bà chủ ở Azabu đều trả cho một khoản thù lao. Đó là một gói tiền mặt được bao bọc kín bằng giấy, không để tên và địa chỉ của người gửi cũng như người nhận, đặt bên trong hòm thư cá nhân ở bưu điện. Aomame lấy chìa khóa hòm thư ở chỗ Tamaru, lấy món đó ở bên trong, rồi trả lại chìa khóa. Nàng sẽ bỏ luôn túi giấy được gói kín ấy vào két bảo hiểm trong ngân hàng, thậm chí chẳng buồn kiểm tra lại trong túi. Đã có hai bao như thế, nằm lăn lóc như mấy cục gạch trong két bảo hiểm.
Ngay tiền lương tháng Aomame cũng không tiêu hết. Nàng có một số tiền để dành nhất định. Vì vậy không cần đến những món tiền này. Khi nhận thù lao lần đầu tiên, nàng đã nói với bà chủ như vậy.
“Chẳng qua chỉ là hình thức thôi,” bà chủ nhỏ nhẹ ôn tồn nói, “Cô cứ coi như đây là việc làm thêm là được rồi, vì vậy cứ nhận trước đã. Nếu không thiếu tiền tiêu thì không dùng đến cũng có sao? Nếu làm vậy mà vẫn cảm thấy không vui thì quyên tặng nặc danh cho một tổ chức nào đó cũng được. Xử lý thế nào hoàn toàn là quyền tự do của cô. Có điều, nếu cô chịu nghe một câu chân tình của tôi, thì tôi cảm thấy tốt nhất là tạm thời cô đừng động đến món tiền này, cứ cất đâu đó để dành.”
“Nhưng mà, tôi không muốn đem chuyện này ra đổi chác, mua bán,” Aomame nói.
“Tôi hiểu cảm giác của cô. Nhưng chính vì mấy gã khốn kiếp đó đã ra đi thuận lợi, nên mới không xảy ra chuyện kiện cáo ly hôn phiền phức, cũng không có chuyện tranh giành quyền giám hộ con cái. Những người đàn bà đó không phải cả ngày nơm nớp lo sợ chồng cũ đến trước cửa, đánh cho mặt mày biến dạng. Lại còn nhận được tiền bảo hiểm nhân thọ, tiền dưỡng lão dành cho gia quyến người chết. Món tiền cô nhận được này, cứ coi như là một cách cảm tạ của họ. Không nghi ngờ gì cả, cô đã làm một việc đúng đắn. Nhưng không nên làm việc không công. Cô biết tại sao không?”
“Tôi không hiểu lắm,” Aomame thành thực trả lời.
“Bởi vì cô không phải thiên sứ, cũng không phải thượng đế. Tôi hiểu rất rõ, hành động của cô xuất phát từ tình cảm thuần túy, và cũng hiểu được tâm trạng không muốn nhận tiền của cô. Nhưng tình cảm thuần khiết không tỳ vết thực ra là một thứ rất nguy hiểm. Muốn sống với thứ ấy không phải chuyện dễ dàng chút nào. Vì vậy cô phải ghim chặt tình cảm của mình xuống mặt đất, chắc như là mắc neo cho khinh khí cầu ấy. Chính là vì mục đích này. Không phải chỉ cần mục đích đúng đắn, chỉ cần tình cảm thuần khiết là muốn làm gì thì làm được đâu. Cô hiểu chứ?”
Aomame nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu. “Tôi không hiểu cho lắm. Nhưng tạm thời cứ làm theo lời bà vậy.”
Bà chủ mỉm cười, nhấp một ngụm trà hương thảo: “Đừng gửi vào tài khoản ngân hàng. Ngộ nhỡ bị cục thuế phát hiện, họ sẽ nghi ngờ. Cô cứ bỏ tiền mặt vào trong két bảo hiểm thuê của ngân hàng là được. Có lúc sẽ dùng đến.”
Tôi sẽ làm thế, Aomame đáp.
Từ câu lạc bộ về nhà, Aomame đang chuẩn bị bữa tối thì điện thoại đổ chuông.
“Aomame,” một giọng nữ cất lên. Giọng hơi khàn khàn, là Ayumi.
Aomame áp ống nghe vào tai, vươn tay văn nhỏ bếp ga, hỏi:
“Sao vậy? Công việc cảnh sát thuận lợi chứ?”
“Tối ngày phải viết phiếu phạt, xử lý xe đậu sai chỗ, bị toàn bộ thế giới căm ghét. Chẳng có duyên với đàn ông, nhưng vẫn hăng hái làm việc thục mạng.”
“Tốt quá.”
“Aomame này, giờ cô đang làm gì đấy?”
“Đang nấu bữa tối.”
“Ngày kia cô rảnh không? Ý tôi là sau buổi chiều ấy,”
“Rảnh thì có rảnh, nhưng tôi không định làm giống lần trước nữa đâu, đang muốn tạm nghỉ chuyện ấy vài ngày.”
“Ừ, tôi cũng vậy. Tạm thời không muốn làm việc đó nữa. Chỉ là mấy hôm nay không được gặp cô, nên muốn gặp nói chuyện chút thôi.”
Aomame nghĩ ngợi giây lát nhưng vẫn không thể quyết định ngay được.
“Ừm, tôi đang dở tay xào rau,” Aomame nói, “Không ngơi ra được. Chừng ba mươi phút nữa cô gọi lại có được không?”
“Được rồi. Ba mươi phút nữa tôi gọi lại nhé.”
Aomame gác máy, xào xong món rau, lại làm thêm món súp miso giá đỏ, ăn với cơm gạo lứt. Nàng uống hết nửa lon bia, còn lại đổ vào bồn rửa bát. Rửa bát đũa xong xuôi, vừa ngồi xuống sofa nghỉ ngơi, Ayumi lại gọi điện thoại tới.
“Nếu được, tôi muốn ăn cơm với cô,” Ayumi nói, “Lúc nào cũng một mình, ăn chẳng thấy ngon.’
“Cô toàn ăn cơm một mình à?”
“Tôi ở trong ký túc xá có nhà ăn, thường ngồi chung với mọi người, vừa ăn vừa nói chuyện ầm ĩ. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng muốn ăn một bữa ngon lành trong khung cảnh yên tĩnh, thong dong. Tốt nhất là ở nơi nào cao cấp lịch sự một chút. Nhưng không muốn đi một mình. Cô hiểu cảm giác ấy chứ?”
“Tất nhiên.”
“Nhưng mà, quanh tôi chẳng có ai cùng đi được trong những lúc như thế. Đàn ông cũng được mà đàn bà cũng ổn. Nhưng họ đều chỉ thích đến mấy quán rượu nhỏ thôi. Thế nên tôi nghĩ, biết đâu có có thể đi với tôi đến những chỗ đấy ăn cơm. Chắc là tôi đã làm khó cô rồi phải không?”
“Không hề,” Aomame nói, “Được đấy, chúng ta đi ăn một bữa ra trò đi. Tôi cũng lâu lắm không đi tới mấy chỗ như thế rồi.”
“Thật không đấy?” Ayumi nói. “Tôi vui quá!”
“Vừa nãy cô bảo ngày kia được, đúng không nhỉ?”
“Phải. Hôm sau tôi được nghỉ. Cô có biết tiệm nào ngon không?”
Aomame nói tên một nhà hàng Pháp ở Nogizaka.
Ayumi nghe thấy cái tên ấy liền hít vào một hơi dài. “Aomame à, có phải nhà hàng ấy nổi tiếng lắm không? Hình như tôi đã đọc trên tờ tạp chí nào đó rồi thì phải thấy bảo giá tiền đắt thôi rồi, đặt bàn cũng phải trước hai tháng mới được! Lương của tôi không ăn nổi ở đó đâu.”
“Không sao cả. Chủ nhà hàng kiêm đầu bếp chính ở đó là hội viên câu lạc bộ chỗ tôi, tôi là huấn luyện viên riêng của ông ấy, tôi còn góp ý với ông ấy về giá trị dinh dưỡng của các món trong thực đơn nữa kia. Chỉ cần đặt trước một tiếng là có thể ưu tiên đặt bàn, giá tiền có thể rẻ đi nhiều. Tuy vị trí có thể không được đẹp.”
“Không sao, có xếp chỗ ngồi trong tủ tường cũng chẳng hề gì.”
“Vậy cô phải ăn mặc đẹp vào nhé,” Aomame nói.
Sau khi gác máy, Aomame chợt nhận ra mình rất có cảm tình với cô cảnh sát trẻ, và thấy hơi ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên nàng có cảm tình với một người như vậy với một người khác kể từ khi Otsuka Tamaki qua đời. Tất nhiên, tình cảm này hoàn toàn khác hẳn với tình cảm nàng đã dành cho Tamaki trước đây. Mặc dù vậy cũng lâu lắm rồi nàng không hề nghĩ đến chuyện ăn cơm với ai đó khác, thậm chí còn cảm thấy đó là ý tưởng không tồi. Chẳng những thế, cô ta lại còn là một cảnh sát đương chức! Aomame thở dài một hơi. Thế giới này đúng là không thể nào tin nổi.
Aomame mặc váy liền thân ngắn tay màu xanh xám, bên ngoài khoác thêm áo len ngắn màu trắng, chân đi giày cao gót Salvatore Ferragamo, đeo hoa tai và một chiếc lắc tay nhỏ bằng vàng, để túi đeo chéo thường ngày ở nhà (đương nhiên cả cái đục nước đá kia nữa), đổi sang cầm một chiếc túi xách Bagagerie. Ayumi thì mặc một chiếc jacket đơn giản màu đen của Comme des Garcons, áo T-shirt cổ rộng màu nâu, chân váy kiểu lá sen in hoa nhỏ, cầm túi xách Gucci giống như lần trước, đeo một đôi hoa tai ngọc trai, đi giày đế bằng màu nâu. So với lần trước, trông cô thanh nhã đáng yêu hơn nhiều, không thể nhận ra đây lại là một cảnh sát.
Hai người gặp nhau trước quầy bar, uống một chút cocktail mimosa, sau đó được dẫn ra bàn. Chỗ ngồi cũng khá đẹp. Đầu bếp bước tới trò chuyện cùng Aomame, nói với nàng rượu vang là quà tặng của nhà hàng.
“Xin lỗi, chai đã mở rồi, vơi mất một chút do uống thử. Hôm qua, có vị khách không hài lòng với chất rượu, nên đổi cho ông ta chai khác. Thực ra rượu này chẳng có vấn đề gì cả. Ông khách ấy là chính trị gia có tiếng, được ca ngợi là đại gia về rượu vang trong chính giới. Nhưng kỳ thực ông ta chẳng biết quái gì về rượu vang cả, nhưng cứ cố ra vẻ ta đây hiểu biết trước mặt người khác thành ra mới kén cá chọn canh vậy thôi, mở miệng ra là nói chai Bourgogne này sao lại có vị chát thế nhỉ? Gặp loại khách ấy tôi cũng chịu chẳng biết nói làm sao nữa, đành nói liều: “Vâng ạ, chắc là hơi có vị chát một chút. Có lẽ tại kho của bên nhập khẩu có vấn đề gì đấy về bảo quản. Để tôi đổi ngay cho ông chai khác. Nhưng mà ông XYZ đúng là ông XYZ, vừa nếm một chút là đã nhận ra ngay.” Sau đó lại đổi cho ông ta chai khác. Vậy là xong xuôi. Tất nhiên, chuyện này không thể nói trắng ra được…lúc thanh toán chỉ cần tăng thêm chút tiền là được rồi. Đằng nào thì cũng là tiền tiếp khách của ông ta ấy mà. Nhưng dẫu sao, đồ của khách không vừa ý trả lại, nhà hàng dĩ nhiên không thể coi như đồ mới mà đem ra cho khách khác được.”
“Và ông nghĩ mang ra chiêu đãi chúng tôi chắc là không sao phải vậy không?”
Đầu bếp nheo nheo một mắt. “Chắc là không sao chứ?”
“Tất nhiên là không sao rồi,” Aomame nói.
“Một trăm phần trăm là không sao ấy chứ,” Ayumi cũng nói.
“Người đẹp này có phải em gái cô không vậy?” tay đầu bếp hỏi Aomame.
“Anh thấy giống không?”
“Mặt mũi thì không giống lắm, nhưng tôi có cảm giác vậy.” Đầu bếp đáp.
“Bạn tôi đấy,” Aomame nói, “Cô ấy là cảnh sát.”
“Thật không?” gương mặt đầu bếp lộ vẻ hoài nghi, lại đưa mắt nhìn Ayumi lần nữa, “Cảnh sát đeo súng đi tuần trên phố ấy à?”
“Chưa bắn ai bao giờ đâu,” Ayumi nói.
“Tôi chưa nói gì không phải đấy chứ?” đầu bếp hỏi.
Ayumi lắc đầu: “Không, chắc chắn là không.”
Tay đầu bếp mỉm cười chắp tay trước ngực. “Trước bất cứ người khách nào, tôi cũng đều có thể đầy tự tin giới thiệu, đây là vang Bourgogne loại thượng hảo hạng. Nhãn hiệu có tiếng, tuổi rượu cũng không tồi, bình thường ít nhất cũng phải mười nghìn yên một chai.”
Nhân viên phục vụ đi đến, rót rượu vang vào ly cho hai người. Aomame và Ayumi cụng ly. Hai ly rượu khẽ chạm vào nhau, phát ra âm vang như tiếng chuông chốn thiên đường.
“Ồ, lần đâu tiên trong đời tôi uống rượu vang ngon thế này đấy,” Ayumi nhấp một ngụm, nheo mắt nói, “Chẳng hiểu là thằng cha nào mà rượu ngon thế này còn không vừa ý?”
“Dù là thứ gì chăng nữa, thế nào cũng có người không vừa ý,” Aomame mói.
Sau đó hai người chăm chú xem xét thực đơn. Ayumi dùng đôi mắt sắc bén của một vị luật sư tài năng đang nghiên cứu bản hợp đồng hết sức quan trọng, đọc đi đọc lại quyển thực đơn hai ba lần. Kiểm tra xem có chỗ quan trọng nào bị bỏ sót, hay có lỗ hổng nào che dấu khéo léo hay không. Trong đầu suy tính các điều kiện và điều khoản được nêu trên hợp đồng, nghiền ngẫm xem chúng sẽ dẫn đến kết quả ra sao. Đặt lợi ích và tổn thất lên cán cân, đong đo kỹ lưỡng. Aomame ngồi ghế đối diện lấy làm hứng thú quan sát bộ dạng ấy của cô.
“Quyết định chưa?” Aomame hỏi.
“Cũng tạm” Ayumi trả lời.
“Vậy cô ăn gì?”
“Xúp ngao, xa lát ba loại hành, thêm một phần óc bê nuôi ở Iwate hầm với rượu vang Bordeaux nữa. Còn cô?”
“Xúp đậu ván, một đĩa rau tổng hợp mùa xuân và cá bóng mú bọc giấy nướng ăn với bí ngô. Có vẻ không hợp với vang đỏ, nhưng đã là đồ miễn phí thì cũng chẳng thể nói gì được.
“Lát có thể trao đổi món ăn thử một chút được không?”
“Tất nhiên là được,” Aomame nói. “À, nếu cô không ngại, gọi thêm một phần tôm he rán để uống rượu, chúng ta ăn chung được không?”
“Tuyệt quá ấy chứ,” Ayumi nói.
“Chọn xong đồ ăn thì tốt nhất nên gấp thực đơn lại,” Aomame nói, “Nếu không người phục vụ sẽ chẳng bao giờ đến đâu.”
“Phải rồi.” Nói đoạn Ayumi gấp quyển thực đơn lại, đặt lên bàn, điệu bộ như lưu luyến lắm. Nhân viên phục vụ lập tức bước tới, mời hai người chọn món.
“Mỗi lần vào tiệm ăn chọn món xong, tôi đều có cảm giác không hiểu mình có chọn nhầm món hay không,” Ayumi nói sau khi nhân viên phục vụ đi khỏi, “Cô thì sao?”
“Dù có chọn lầm, thì cũng chỉ là một bữa ăn thôi, so với những sai lầm trong đời người thì có đáng gì.”
“Đương nhiên,” Ayumi nói, “Nhưng với tôi thì lại là chuyện lớn đấy. Từ bé tôi đã vậy rồi, lần nào cũng cứ chọn món xong là thấy hối hận, kiểu như là ‘ôi trời nếu không chọn hamburger thịt bò mà ăn bánh chiên thịt tôm có phải hơn không’. Hồi nhỏ cô có thế không?”
“Hồi tôi còn nhỏ, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhà tôi không có thói quen đi ăn bên ngoài. Không đi ăn tiệm dù chỉ một lần. Vì vậy cho đến khi lớn, tôi chưa từng có kinh nghiệm đi nhà hàng, mở thực đơn, chọn những món mình thích rồi nói với nhân viên phục vụ. Ngày qua ngày, lúc nào cũng là người nhà bưng lên món gì tôi lại ngoan ngoãn ăn hết món đó. Dù không ngon, dù quá ít, thậm chí dù đó là món tôi ghét thì cũng không được phép phàn nàn. Nói thực với cô, cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng quan tâm xem mình ăn cái gì nữa.”
“Ồ, ra là thế. Cụ thể thế nào thì tôi không rõ, nhưng mà đúng là không thể biết được. Tôi cứ tưởng từ nhỏ cô đã quen ra vào những nơi thế này.”
Tất cả những điều đó đều do Otsuka Tamaki vỡ lòng cho Aomame. Vào tiệm ăn cao cấp phải đi lại nói năng thế nào, gọi món ra sao mới không bị coi thường, cách chọn rượu vang, món tráng miệng, đối đáp với nhân viên phục vụ, rồi dùng dao ăn, dĩa và thìa, tất cả những thứ ấy, Tamaki đều nắm rõ như lòng bàn tay, và dạy lại cho Aomame kỹ càng tỉ mỉ. Cả cách chọn trang phục phối với đồ trang sức, trang điểm Aomame cũng đều học được từ Tamaki. Đối với Aomame, tất cả những thứ ấy đều là phát hiện mới. Tamaki lớn lên trong một gia đình giàu có, sống trong khu biệt thự cao cấp, mẹ cô là nhà ngoại giao, nên rất chú ý đến cách ăn mặc và lễ nghi. Vì vậy từ hồi còn học trung học, Tamaki đã thuộc làu những kiến thức xã hội ấy rồi, thậm chí cả những nơi giành cho người lớn cô cũng nghênh ngang bước vào như không. Aomame tham lam hấp thu toàn bộ những bí quyết đó. Nếu không gặp được cô giáo giỏi như Tamaki, có lẽ nàng đã trở thành một người rất khác Aomame của hiện tại. Thậm chí nhiều lúc nàng còn cảm thấy Tamaki vẫn đang còn sống, đang ẩn náu ngay trong cơ thể mình.
Mới đầu Ayumi hơi có vẻ căng thẳng, nhưng uống chút rượu vang rồi, tâm trạng dần bình tĩnh trở lại.
“À, tôi có câu này muốn hỏi cô,” Ayumi nói, “Nếu cô không muốn thì không trả lời cũng chẳng sao, nhưng mà thực sự tôi muốn hỏi lắm lắm. Cô sẽ không giận chứ?”
“Không đâu.”
“Câu hỏi rất kỳ cục, nhưng tôi không có ác ý gì đâu, xin cô tin là thế. Tôi chỉ hơi tò mò một chút. Nhưng có một số người nghe câu hỏi kiểu vậy sẽ nổi giận đùng đùng.”
“Không sao, tôi sẽ không giận.”
“Thật không? Người khác ngoài miệng thì nói vậy nhưng rút cuộc thì vẫn nổi đóa.”
“Con người tôi rất đặc biệt. Vì vậy không sao đâu.”
“Vậy, hồi nhỏ có gã nào làm chuyện gì quái đản với cô không?”
Aomame lắc đầu. “Tôi nghĩ là không. Sao thế?”
“Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Không có thì tốt.” Ayumi nói, rồi lại đổi chủ đề câu chuyện, “À này, hồi trước cô có bạn trai không? Tôi muốn nói đến loại yêu đương nghiêm túc ấy.”
“Không,”
“Không có người nào à?”
“Không có người nào hết,” Aomame trả lời, đoạn hơi ngập ngừng, “Nói thực cho cô biết, mãi đến năm hai sáu tuổi tôi vẫn còn là gái trinh.”
Ayumi nhất thời không thốt được câu nào. Cô đặt dao dĩa xuống, lấy khăn ăn ra lau khóe miệng, sau đó nheo mắt, nhìn chằm chằm vào gương mặt Aomame hồi lâu.
“Một người tuyệt vời như cô? Khó tin quá đi mất.”
“Hồi đó tôi chẳng hứng thú gì với chuyện này hết.”
“Không hứng thú gì sao?”
“Tôi từng thích một người,” Aomame nói, “Hồi mười tuổi tôi có thích một người, còn nắm tay cậu ấy nữa.”
“Mười tuổi phải lòng một cậu trai. Chỉ có vậy thôi à?”
“Chỉ vậy thôi.”
Ayumi cầm dao dĩa lên cắt con tôm thành những miếng nhỏ trong lúc chìm sâu vào suy nghĩ. “Vậy cậu ấy giờ đang ở đâu? Làm gì?”
Aomame lắc đầu. “Tôi không biết. Chúng tôi là bạn học cùng lớp ba và lớp bốn ở trường tiểu học thành phố Ichikawa tỉnh Chiba, lên lớp năm thì tôi chyển lên Tokyo, không gặp lại cậu ấy nữa, cũng không nghe được tin tức gì. Điều duy nhất tôi biết về cậu ấy là, nếu cậu ấy vẫn còn sống thì năm nay đã hai chín tuổi, qua mùa thu này thì có lẽ được ba mươi rồi.”
“Có nghĩa là, cô không có ý định điều tra xem giờ cậu đó ở đâu, làm gì, phải không? Nếu muốn điều tra thì tôi nghĩ cũng không khó khăn lắm đâu.”
Aomame lại lắc đầu dứt khoát. “Tôi không muốn tự mình điều tra.”
“Lạ nhỉ. Nếu là tôi, chắc chắn sẽ dùng mọi cách để tìm được địa chỉ của cậu ta rồi. Nếu đã thích người ta như thế, thì tìm đi, rồi đến trước mặt mà nói rằng, cô thích người ta, thế là xong chứ gì.”
“Tôi không muốn làm như vậy.” Aomame nói, “Điều tôi mong đợi là, một lúc nào đó sẽ tình cờ gặp lại cậu ấy ở một nơi nào đó. Như gặp nhau trên đường, hoặc ngẫu nhiên ngồi chung một chuyến xe buýt.”
“Cuộc gặp tình cờ quyết định cả số phận.”
“Ừ, đại loại vậy,” Aomame nói, khẽ nhấp một chút rượu vang, “Tới lúc đó, tôi sẽ dốc lòng nói với cậu ấy: cả đời này em chỉ yêu một mình anh thôi.”
“Như thế tất nhiên là cực kỳ lãng mạn,” Ayumi nói với giọng có vẻ cực kỳ kinh ngạc, “Nhưng tôi có cảm giác khả năng hai người gặp lại là rất thấp. Huống hồ đã hơn hai chục năm rồi không gặp nhau, mặt mũi người ta sợ đã thay đổi nhiều, ở ngay trước mặt cũng không nhận ra được.”
Aomame lắc đầu: “Dù mặt mũi đã thay đổi thế nào, tôi chỉ cần nhìn thoáng qua là nhận ra cậu ấy ngay. Tuyệt đối không thể lầm được.”
“Vậy à?”
“Ừ, vậy đấy.”
“Vậy nên cô luôn tin chắc rằng nhất định mình sẽ tình cờ gặp lại anh chàng kia nên vẫn một mực chờ đợi ngày ấy.”
“Vì vậy những lúc đi trên phố tôi luôn không ngừng quan sát.”
“Ồ,” Ayumi nói, “Nhưng mà, mặc dù yêu anh ta như vậy, nhưng không ảnh hưởng gì đến chuyện làm tình với người đàn ông khác chứ? Tôi muốn nói đến chyện sau năm hai sáu tuổi ấy.”
Aomame nghĩ ngợi giây lát, sau đó đáp: “Mấy chuyện đó chẳng qua chỉ là mây gió phù phiếm thôi, sẽ không để lại vết tích gì cả.”
Im lặng giây lát. Hai người tập trung vào mấy món ăn. Sau đó Ayumi lại lên tiếng: “Câu hỏi này có lẽ hơi mạo muội. Năm hai sáu tuổi, có phải cô đã gặp chuyện gì không?”
Aomame gật đầu: “Năm đó đã xảy ra một chyện thay đổi hoàn toàn con người tôi. Nhưng giờ tôi chưa thể nói cho cô được. Xin lỗi nhé.”
“Không sao,” Ayumi nói, “Hình như tôi đang bới móc đời tư của cô quá rồi, không làm cô giận chứ?”
“Chắc chắn là không,” Aomame nói.
Các món súp được đưa lên. Hai người lặng lẽ xúc ăn, câu chuyện cũng tạm dừng lại. Hai người đặt thìa xuống, đợi nhân viên phục vụ đến dọn đi xong, câu chuyện lại tiếp tục.
“Nhưng mà, cô không thấy sợ à?”
“Sợ gì chứ, cô thử ví dụ xem?”
“Cô thấy đấy, không chừng cô sẽ mãi mãi không bao giờ gặp được anh ta. Tất nhiên, có thể sẽ tình cờ gặp lại thật. Tôi cũng cảm thấy như vậy thì rất tốt. Tôi thực lòng hy vọng thế. Nhưng khách quan mà nói, khả năng cả đời không bao giờ gặp lại cũng rất lớn phải không? Hơn nữa, cho dù có trùng phùng, nhưng có thể anh ta đã kết hôn với người khác và đã có một hai đứa con rồi cũng nên. Phải vậy không? Nếu như vậy, thì cô phải sống cô độc một mình suốt phần đời còn lại à? Vĩnh viễn không thể kết hợp với người duy nhất mình yêu trên đời này. Nghĩ tới chuyện dó, chẳng nhẽ cô không thấy sợ à?”
Aomame chăm chú nhìn rượu vang sóng sánh màu đỏ trong ly thủy tinh. “Có lẽ cũng sợ thật. Nhưng ít nhất tôi vẫn có một người mình yêu.”
“Dù người ấy không yêu cô?”
“Cô độc một mình cũng chẳng sao, chỉ cần thật lòng yêu một người, cuộc đời sẽ được cứu rỗi. Dẫu rằng không được sống bên người ấy.”
Ayumi thoáng trầm tư giây lát. Nhân viên phục vụ bước đến, rót đầy rượu vang vào ly cho hai người. Aomame nhấp thêm một ngụm nhỏ, lại thấy Ayumi nói đúng là không sai chút nào. Rốt cuộc ai mà lại không hài lòng với rượu ngon như thế này cơ chứ?
“Aomame này, cô nghĩ thông suốt được như thế giỏi thật đấy.”
“Chẳng phải tôi nghĩ thông suốt gì đâu, chẳng qua là chỉ thật lòng nghĩ như vậy thôi.”
“Tôi cũng có người mình thích,” Ayumi thật thà bày tỏ, “Từ hồi mới tốt nghiệp trung học, hắn ta là người đầu tiên tôi làm tình, lớn hơn ba tuổi. Nhưng ngay sau đấy hắn ta lại lập tức qua lại với một cô gái khác. Từ đó trở đi, tôi bắt đầu buông thả, thậm chí đến mức khá nghiêm trọng. Tôi đã chẳng còn hi vọng gì ở hắn ta nữa, nhưng vết thương lòng từ bấy giờ vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Hắn là một tên vô lại bắt cá hai tay, khéo đưa đẩy. Thế mà, không ngờ tôi lại yêu hắn!”
Aomame gật đầu. Ayumi cũng nâng ly rượu vang lên, uống một ngụm.
“Đến giờ thằng cha ấy vẫn thường gọi điện tới, hẹn gặp tôi. Dĩ nhiên, thứ hắn muốn chỉ là thân thể tôi thôi. Tôi hiểu rõ vậy, nên không gặp. Gặp mặt rồi cũng chẳng hay hớm gì. Nhưng mà, mặc dù đầu óc biết rõ là thế, nhưng cơ thể vẫn có phản ứng, lại thấy mềm lòng muốn ngủ với hắn ta. Chuyện này cứ lặp đi lặp lại mấy lần, thành thử muốn mặc sức quậy một trận cho đã. Tâm trạng đó, cô hiểu được không?”
“Tôi hiểu,” Aomame nói.
“Thằng cha này đúng là một tên vô lại. Tính tình thì hẹp hòi, làm tình cũng chẳng giỏi lắm. Nhưng ít nhất thì hắn cũng không sợ tôi, ít nhất khi ở bên nhau hắn yêu thương tôi.”
“Tâm trạng ấy không thể lựa chọn được,” Aomame nói, “Tự nó ập đến, hoàn toàn khác hẳn chuyện chọn món trong thực đơn.”
“Nhưng mà chọn sai thì sẽ hối hận mãi không thôi, hai thứ ấy hóa ra cũng giống nhau ra trò.”
Cả hai cùng bật cười.
Aomame lại nói: “Ừm, chọn đồ ăn hay chọn đàn ông, hay kể cả là những thứ khác nữa, chúng ta đều cảm thấy hình như mình đang lựa chọn, nhưng trên thực tế, có lẽ có lẽ chúng ta chẳng lựa chọn gì cả. Mà có khi ngay từ đầu tất cả đã được định đoạt trước rồi, chúng ta chẳng qua chỉ làm ra vẻ chọn lựa thế thôi. Làm gì có chuyện ý chí quyết định tất cả, biết đâu chỉ là tưởng tượng của chúng ta thôi. Tôi thường hay nghĩ như thế.
“Nếu mà như vậy thì cuộc đời u ám thật.”
“Có lẽ thế.”
“Nhưng mà Aomame này,” Ayumi nói, “Tôi nghĩ, cái thế giới này vừa chẳng hợp lý lại vừa thiếu lòng tốt.”
“Có lẽ thế,” Aomame nói, “Nhưng đã tới nước này thì không thể thay đổi được nữa.”
“Thời hạn trả hàng đã hết từ lâu,” Ayumi nói.
“Hóa đơn mua hàng cũng vứt đâu chẳng rõ.”
“Nói đúng lắm.”
“Nhưng cũng chẳng sao. Thế giới này sẽ sụp đổ trong chớp mắt đây thôi,” Aomame nói.
“Thế thì hay quá.”
“Sau đó nước Trời sẽ giáng xuống.”
“Không đợi được nữa đâu,” Ayumi mói.
Hai người ăn đồ ăn tráng miệng, uống esoresso, chia đôi tiền thanh toán (giá rẻ đến giật mình). Sau đó lại đến quán bar gần đấy uống mỗi người một ly cocktail.
“À, Aomame này, người đàn ông bên kia kìa, có phải loại cô thích không ấy nhỉ?”
Aomame liếc sang phía đó. Một người đàn ông trung niên dong dỏng cao đang ngồi ở cuối quầy bar, uống Martini một mình. Nom giống một học sinh trung học học giỏi, chơi thể thao giỏi, đột nhiên già đi và biến thành một người đàn ông trung niên. Mái tóc bắt đầu lưa thưa, nhưng nét mặt vẫn khá trẻ.
“Chắc là vậy, nhưng có điều hôm nay tôi không muốn đàn ông.” Aomame quả quyết nói, “Mà hơn nữa đây là quán rượu cao cấp.”
“Tôi biết. Chỉ là nói thế thôi.”
“Để lần sau tính đi.”
Ayumi chăm chú nhìn Aomame: “Ý cô có phải, lần sau vẫn đánh bạn với tôi nữa không? Nghĩa là, lúc đi kiếm đàn ông ấy?”
“Được chứ,” Aomame nói, “Hai chúng ta cùng đi.”
“Tốt quá. Tôi có cảm giác, khi có cô ở bên cạnh, thì không chuyện gì là không làm được.”
Aomame uống Daiquiri, còn Ayumi vẫn uống Tom Collins.
“Lần trước trong điện thoại, cô nói chúng ta có làm kiểu đồng tính luyến ái,” Aomame nói, “Rốt cuộc chúng ta đã làm những gì đây?”
“À, chuyện đó ấy à,” Ayumi nói, “Cũng chẳng làm gì ghê gớm. Thì để cho không khí sôi nổi lên, làm điệu bộ cho ra vẻ đồng tính luyến ái thôi. Chẳng nhẽ cô không nhớ chút gì sao? Lúc đó cô cũng bốc lắm cơ mà.”
“Tôi không nhớ gì hết, quên sạch sành sanh rồi,” Aomame nói.
“Thì cũng khỏa thân, vuốt ve đầu vú này, hôn chỗ ấy này…”
“Hôn chỗ ấy?”
Aomame vừa buột miệng tốt ra, vội hốt hoảng đưa mắt nhìn quanh. Trong quán bar yên tĩnh này, giọng nàng đang âm vang một cách không cần thiết. Cũng may những lời ấy hình như không vọng đến tai ai khác.
“Chỉ là làm bộ thôi, chưa dùng lưỡi.”
“Ôi trời ơi,” Aomame lấy đầu ngón tay trỏ day day lên huyệt thái dương, thở dài một tiếng, “Đúng thật là, chuyện ngu xuẩn như thế cũng làm được.”
“Xin lỗi nhé,” Ayumi nói.
“Không sao. Cô không cần phải ngại. Lỗi tại tôi, không ngờ lại say đến mức ấy.”
“Nhưng Aomame này, chỗ ấy của cô đáng yêu mà đẹp lắm đấy nhé, cảm giác cứ như hàng mới vậy?”
“Cô đừng nói thế, sự thực là tương đương với mới mà.”
“Có phải vì ít khi dùng không?”
Aomame gật đầu. “Đúng thế. À, tôi bảo này, chắc cô không có khuynh hướng đồng tính luyến ái đấy chứ?”
Ayumi lắc đầu. “Đấy là lần đầu tiên tôi làm thế, thật đấy. Nhưng mà lúc ấy tôi say rồi, vả lại cũng tự nhủ, đằng nào thì cũng là với Aomame, thử một chút cũng chẳng sao. Bắt chước theo cho vui hẳn không có gì quá đáng. Cô thì sao? Vẻ mặt đó…”
“Tôi cũng chẳng hứng thú. Nhưng hồi trung học, tôi từng có kinh nghiệm tương tự với một cô bạn gái thân. Vốn không định thế, nhưng kết quả lại thành ra thế.”
“Chuyện như vậy cũng có thể xảy ra mà. Sao hả, lúc đó có cảm giác không?”
“Ý cô là đồng tính luyến ái là không nên?”
“Không phải vậy. Tôi không nói đồng tính luyến ái là không nên, hay không sạch sẽ. Chỉ là tôi cảm thấy không nên để quan hệ giữa mình và cô bạn thành như vậy. Tôi không muốn biến tình bạn quý giá thành thứ có hình thức trần trụi thế.”
“Ồ,” Ayumi nói, “Aomame, tối nay có thể cho tôi ngủ nhà cô một đêm không? Tôi không muốn cứ thế này trở về ký túc xá. Chỉ cần về tới đó, bầu không khí tao nhã không dễ gì tạo được này sẽ bị hủy duyệt trong nháy mắt.”
Aomame uống nốt ngụm Daiquiri cuối cùng, đặt ly thủy tinh lên mặt quầy bar. “Ngủ lại chỗ tôi cũng không sao, nhưng không được nghĩ ra trò gì quái đản đấy nhé.”
“Ồ, tất nhiên rồi. Tôi không có ý đó. Chỉ là muốn ở với cô thêm một lúc nữa thôi. Cho tôi ngủ đâu cũng được. Dưới đất hay chỗ nào cũng xong. Ngày mai được nghỉ, buổi sáng không cần dậy sớm.”
Hai người chuyển qua đi tàu điện ngầm về căn hộ ở JiYugaoka. Kim giờ đồng hồ chỉ gần đến số mười một. Cả hai đều đã ngà ngà say, buồn ngủ rũ ra. Aomame bỏ gối đệm ra sofa, lấy một bộ đồ ngủ cho Ayumi mặc.
“Cho tôi nằm giường với cô được không? Tôi muốn ôm cô một lúc. Không nghĩ lung tung đâu, tôi hứa đấy.”
“Được thôi,” Aomame nói. Một người đàn bà đã từng giết ba người đàn ông, không ngờ lại nằm ngủ chung giường với một cảnh sát đang tại ngũ! Nàng thầm nghĩ. Thế giới này đúng là không thể nào tin nổi.
Ayumi chui lên giường, hai tay vòng ra ôm chặt cơ thể Aomame, bầu vú săn chắc của cô áp sát vào cánh tay Aomame. Hơi thở trong miệng hòa mùi kem đánh răng lẫn mùi rượu.
“Aomame, cô không cảm thấy ngực tôi quá to chứ?”
“Không đâu. Nhìn hình dáng rất đẹp mà.”
“Nhưng mà, có phải ngực to sẽ khiến người ta thấy mình đầu óc ngu độn không? Lúc chạy thì cứ lúc la lúc lắc, với cả khi phơi cái áo ngực to như hai cái tô trộn xa lát lên dây phơi quần áo cũng ngại lắm.”
“Hình như đàn ông lại thích vậy.”
“Mà cả đầu vú cũng to quá.”
Ayumi cởi cúc áo ngủ ra, để lộ một bên vú, vạch cho Aomame xem đầu vú. “Cô xem, to thế này. Cô không thấy lạ sao?”
Aomame xem xét đầu vú của Ayumi, đúng là không nhỏ, nhưng nàng cảm thấy cũng không to đến mức phải lo lắng. Chỉ to hơn đầu vú của Tamaki một chút. “Đáng yêu đấy chứ? Ai bảo với cô là to quá?”
“Có một gã. Bảo chưa bao giờ thấy của ai to thế.”
“Thằng cha đó ít gặp thì thấy lạ thôi. To thế nào là bình thường. Của tôi thì nhỏ quá.”
“Nhưng tôi lại thích kiểu vú như của Aomame. Hình dáng thanh tú, khiến người ta có cảm giác đầu óc cô rất thông minh.”
“Làm gì có chuyện đó? Nhỏ quá, hai bên còn không đều nhau nữa. Vậy nên lúc chọn áo ngực rất đau đầu, vì kích cỡ hai bên khác nhau.”
“Thế hả? Thì ra ai cũng có chuyện phiền não.”
“Đúng rồi,” Aomame nói, “Mau ngủ đi thôi.”
Ayumi thọc tay xuống dưới, luồn vào trong áo ngủ của Aomame. Aomame liền chộp lấy cổ tay cô, giữ chặt không buông ra.
“Không được. Vừa nãy đã nói rồi mà. Không được giở trò lung tung.”
“Xin lỗi,” Ayumi nói, rồi rút tay về, “ừ nhỉ, tôi đã hứa rồi. Chắc là tôi say đấy. Nhưng mà, Aomame này, tôi rất hâm mộ cô đấy, cứ như một nữ sinh cấp ba ngây thơ vậy.”
Aomame im lặng.
“Tôi bảo này, cô nhất định là để dành cho người đó, nên mới giấu đi thứ quý giá nhất của mình, có phải vậy không?” Ayumi nói nhỏ như thể thì thầm bên tai. “Điểm này thì tôi thực sự ngưỡng mộ cô. Có một người để cô có thể gìn giữ thứ gì đó cho người ấy.”
Có lẽ vậy. Aomame thầm nhủ. Nhưng thứ quý giá nhất đối với mình, rốt cuộc là gì nhỉ?
“Mau ngủ đi,” Aomame nói, “Tôi sẽ ôm cô đến lúc cô ngủ nhé.”
“Cảm ơn,” Ayumi nói, “Xin lỗi nhé, làm phiền cô quá.”
“Không cần xin lỗi,” Aomame nói, “Cô có gì phiền tôi đâu.”
Aomame nãy giờ vẫn cảm thấy hơi thở chầm chậm của Ayumi dưới nách mình. Xa xa vẳng lại tiếng chó sủa, có người lạch cạch đóng cửa sổ. Từ đó đến giờ, nàng vẫn khe khẽ vuốt ve mái đầu Ayumi.
Để lại Ayumi đã say ngủ, Aomame ra khỏi giường. Chắc đêm nay nàng phải ngủ sofa rồi. Nàng lấy nước khoáng trong tủ lạnh ra, đổ vào cốc thủy tinh, uống hết hai cốc. Sau đó ra ngoài lan can chật hẹp ngồi trên chiếc ghế nhôm ngắm nhìn đường phố. Đây là một đêm xuân thanh vắng, trên con đường phía xa, dường như có tiếng sóng biển nhân tạo cưỡi trên cơn gió nhẹ vang đến. Đã qua nửa đêm, ánh đèn neon rực rỡ giảm bớt đi phần nào.
Đúng là tớ rất có cảm tình với Ayumi. Tớ sẵn sàng cố gắng hết sức để che chở cho cô ấy. Từ sau khi Tamaki qua đời, suốt một thời gian dài, tớ đã quyết tâm không thân thiết với bất cứ một ai nữa, chưa bao giờ nghĩ lại cần một người bạn mới. Nhưng khi gặp Ayumi, không hiểu sao tự nhiên lại có thể mở lòng ra, có thể thẳng thắn thổ lộ tâm sự ở một mức độ nào đó. Thế nhưng, cô ấy hoàn toàn khác với cậu. Aomame tâm sự với Tamaki vẫn đang sống trong lòng nàng như thế. Cậu là một người đặc biệt. Cậu đã lớn lên cùng với tớ cơ mà. Không ai có thể so sánh với cậu được.
Aomame ngửa đầu ra phía sau, ngước nhìn bầu không. Tuy hai mắt đang nhìn lên trời cao, nhưng ý thức nàng thì lang thang vấn vít trong những ký ức xa xăm. Khoảng thời gian nàng và Tamaki ở bên nhau, những chuyện hai người đã nói, và cả chuyện hai người sờ mó thân thể nhau nữa…nhưng từ từ, nàng bỗng nhận ra bầu trời đêm trong mắt mình lúc này, dường như có gì đó khác biệt với bầu trời mọi hôm. Có thứ gì đó không giống với thường ngày. Một cảm giác rờn rợn, rất lờ mờ nhưng khó mà phủ nhận được.
Khác biệt ở đâu nhỉ? Nàng mất một lúc mới nghĩ ra. Sau khi nghĩ ra, lại khó khăn một lúc mới chấp nhận được sự thực ấy. Bởi vì, thứ mắt nàng nhìn thấy, thì ý thức nàng lại không thể nào xác nhận nổi.
Trên bầu trời có hai mặt trăng. Một mặt trăng nhỏ, một mặt trăng lớn, ở cạnh nhau trôi trên bầu trời. Mặt trăng lớn chính là vầng trăng xưa nay vẫn thường thấy, gần tròn, màu vàng. Nhưng ở bên cạnh nó, lại còn một mặt trăng khác, một mặt trăng hình dạng hơi khác đi, nhìn không được quen lắm, màu sắc cũng như thể phủ lên một lớp rêu mỏng, hơi ngả sang màu xanh lục. Đây chính là thứ mà mắt nàng phát hiện ra.
Aomame nheo mắt lại, tập trung tinh thầm chăm chú nhìn hai mặt trăng. Sau đó nàng nhắm mắt lại, một lúc lâu sau mới hít thở thật sâu và mở to mắt ra. Trong lòng thầm mong tất cả sẽ trở lại bình thường, trên bầu trời vẫn chỉ có một mặt trăng. Nhưng tình hình chẳng có gì thay đổi. Không phải trò đùa của ánh sàng, cũng không phải thị lực của nàng có vấn đề. Trên bầu trời chính xác và rõ rành rành có hai vầng trăng đang đứng cạnh nhau tuyệt đẹp. Một mặt trăng màu vàng, và một mặt trăng màu xanh lục.
Aomame định đánh thức Ayumi dậy, hỏi cô xem, phải chăng đúng là có hai mặt trăng ở đó. Nhưng rồi nàng lại thay đổi ý định, thôi không gọi nữa. “Đây là chuyện rõ mười mươi rồi còn gì? Từ năm ngoái mặt trăng đã biến thành hai rồi mà.” Có lẽ Ayumi sẽ nói như thế. Thế nhưng, có thể cô cũng sẽ nói thế này: “Cô nói linh tinh gì thế? Tôi chỉ thấy có một mặt trăng thôi mà. Hay là mắt cô bị sao rồi?” Dù nói thế nào, vấn đề nàng đang đối mặt cũng không thể giải quyết, mà ngược lại còn trở nên nghiêm trọng hơn.
Aomame lấy bàn tay che đi nửa mặt, tiếp tục nhìn chăm chú hai vầng trăng trên cao. Đúng thế, có chuyện gì đó đang xảy ra. Nàng nghĩ. Nhịp tim đập nhanh hơn. Nếu không phải thế giới xảy ra chuyện, thì chính bản thân mình đang có chuyện. Rốt cuộc là cái bình có vấn đề hay là cái nắp có vấn đề đây?
Nàng trở về phòng, khóa cửa chính lại, kéo rèm cửa xuống, lấy rượu brandy trong tủ bếp, rót ra ly thủy tinh. Ayumi nằm trên giường phát ra những tiếng ngáy đều đặn. Aomame chăm chú nhìn cô, nhấm nháp một chút brandy. Nàng chống hai khủy tay lên bàn ăn, cố gắng không nghĩ đến những thứ phía sau tấm rèm kia nữa.
Biết đâu, nàng thầm nghĩ, thế giới này thực sự đang đi dần đến hồi kết.
“Và nước trên Trời sẽ giáng xuống,” Aomame khẽ thốt lên thành tiếng.
“Không chờ được nữa rồi,” tiếng ai đó ở đâu đó cất lên.
1Q84 1Q84 - Haruki Murakami 1Q84