Books are the bees which carry the quickening pollen from one to another mind.

James Russell Lowell

 
 
 
 
 
Tác giả: Phan Nhật Nam
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Số chương: 3
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1823 / 52
Cập nhật: 2016-06-03 15:59:33 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Tiếp Theo Tháng Sáu
hi những giọt mưa đầu mùa Hè rơi xuống, từ trong thăm thẳm, xa xôi, tận cùng trí nhớ - qua âm mưa ray rứt của tháng Sáu - cũng dần thành hình lại Nỗi Ðau luôn hiện mới.. Nầy đây, lần tháng Sáu 1965, ngày vỡ trận Ðồng Xoài, bắt đầu từ những ngày sau 10, 11, nơi Nghĩa Trang Quân Ðội Gò Vấp, với hằng trăm, lên đến số ngàn xác chết của Tiểu Ðoàn 2/7 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng, và đơn vị thân thiết đầu đời, Tiểu Ðoàn 7 Nhẩy Dù, mà người chết không thể kiểm kê chính xác, chỉ biết lấy tổng số cơ hữu của đơn vị xong trừ cho đám người hiện có mặt.
Người sống sót ngồi nhìn nhau ngơ ngác, vô hồn ở sân cờ tiểu đoàn, đang là bãi hỗn mang chen chúc, gào kêu với những người vợ lính quấn dối vành khăn trắng xổ tung tưởi do những con nhỏ bấu víu khóc ngất..
Ba, ba... ba đâu má ơi!! Anh lúc ấy chỉ là cậu thiếu úy tuổi vừa qua hai-mươi tuổi, nhìn trân vào mỗi người vợ, con của binh sĩ tử trận (chung trung đội, đại đội anh) với cảm giác có tội - Tội sống sót khi người khác phải chết - Những người (chết) vô cùng cần thiết cho những đơn vị gia đình gồm người đàn bà tơi tả, hốt hoảng và những đứa trẻ quá nhỏ chưa có đủ ý niệm về cái chết của người cha.
Rồi, 22 tháng 6, 1975 để chính bản thân anh có cảm giác như chết đi từng phần trong cơ thể, khi quấy xong bình sữa cho con, mang vội chiếc túi nhỏ với cảm giác tuyệt vọng: Lần đi nầy cùng đành như cơn tử biệt, bởi thấy rõ chiếc bẩy sự chết đang dần chụp xuống, chắc chắn siết cứng lại. Hh nói tiếng nhỏ thảm thiết: “Khổ quá, chắc em sống không nổi..” khi đưa anh đến nơi trình diện đi tù, Trường Lê Văn Duyệt, Gia Ðịnh. Cả hai không thể ngờ ra kết thúc oan nghiệt với mười-bốn năm sau.
Tiếp năm 1976, đúng Ngày Quân Lực, 19 tháng 6, bước xống tàu Sông Hương ở Tân Cảng, góc cầu xa lộ Saigon- Biên Hòa, nhìn ra xa, thành phố xao xác ánh điện vàng đục, dòng nước sông cuồn cuộn lẫn màn đêm.
Giữa cảnh sống thú vật, tệ hơn con thú với thế ngồi im không cử động, tiểu, đại tiện trên cùng một chỗ trong suốt hành trình hai ngày đêm đi ra “Miền Bắc xã hội chủ nghĩa”, so với cái chết nơi dòng nước trong xanh của biển trời phương Nam, chắc chắn ngàn con người dưới những căn hầm tàu địa ngục nầy sẽ quyết định dễ dàng nếu như họ có quyền chọn lựa, Năm 1989, anh trở về với cảm giác đau xót nguyên vẹn của lần bị lăng nhục lâu dài mười-bốn năm trước.
Bước chân vào căn phòng nhà cũ với tủ sách trống vốc, lăn lóc nhàu nát cuốn tập con anh tập viết những dòng chữ đầu đời. Con mình bây giờ ở đâu?
Nhưng anh và những người bạn lính không thể để cuốn trôi, đánh sập bởi thống nhục thất trận, lưu đày biệt xứ trên quê hương - Người Lính không hề thất vọng cho dẫu đã toàn phần thất bại. Ðể tồn tại, tự cứu, anh phải tích chứa, lưu giữ trí nhớ, dậy nên từ tận sâu mỗi tế bào thần kinh nỗi xúc động vô vàn mãnh liệt của những tháng ngày lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công: Ngày Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kontum, An Lộc... hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của Người Lính - Bảo Quốc An Dân - Sứ Mệnh không hề nói thành lời nhưng được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng,
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước...
Phải, những Người Lính Vô Danh ấy vẫn tồn tại với mười, hai mươi, ba mươi năm dưới bom đạn cực độ, nơi những trại tù như “Cổng Trời Quyết Tiến”, Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Thanh Phong, Thanh Cẩm, Lam Sơn hậu thân hệ thống trại giam Lý Bá Sơ. Những địa danh trại tù có số lượng mộ chí gấp đôi, gấp ba lần tổng số tù hiện diện, và người sống sót cũng chỉ là những xác thân khô kiệt di động chờ ngày chôn xuống huyệt. Những người lính anh gặp khắp nơi trong cuộc lữ hành với hết tuổi trẻ qua ba-mươi năm chiến tranh và tù ngục kia đã sống sót qua dài trận bão lửa thống khổ, nhục nhằn, nguy biến mà chắc rằng không một ai của bất cứ quân đội nào, thuộc bất kỳ một sắc dân nào trên thế giới có thể bền bỉ chịu đựng với mức độ kiên cường kỳ diệu đến ngần ấy. Kỳ tích thầm lặng đơn lẻ với phận của “mỗi con người - mỗi người lính” nầy hẳn chỉ được thực hiện, thúc giục nuôi dưỡng bởi “một động lực vô vàn cao thượng”. Anh có bổn phận trình bày đầy đủ, và chính xác về hành vi xã kỷ, quên mình nầy.
Nội dung vĩ đại kết nên từ hành vi xã kỷ của mỗi người lính nêu trên được thực hiện qua cảnh tượng của một ngày Hè hùng tráng: Ngày 25 tháng 6, 1972, chiến dịch tái chiếm Quảng Trị khai diễn với các đơn vị, Biệt Ðộng Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng địa phương của Tiểu Khu Quảng Trị, phối hợp với các chi đoàn chiến xa, thiết quân vận của Quân Ðoàn I, được yểm trợ bởi các đơn vị pháo cơ hữu, và của vùng chiến thuật. Ðoàn quân quyết tử phục hận đồng vượt tuyến xuất phát Sông Mỹ Chánh tiến theo trục chính Bắc với mục tiêu cuối cùng - Cổ Thành Ðinh Công Tráng hay Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Trị - mà quân Nam phải tạm lìa bỏ từ 29 tháng Tư do những ước tính sai lầm của những cấp chỉ huy, từ viên tổng thống tại Dinh Ðộc Lập, đến hàng tướng lãnh chiến trường. Sự sai lầm tai họa của những kẻ lãnh đạo, chỉ huy nay được chuộc lại bằng giá máu của vạn người lính xé thân nơi trận địa.
Từ Ngã Ba Long Hưng, cửa ngỏ phía Nam Quảng Trị, điểm tiến quân cao nhất của Tiểu Ðoàn 7 Nhẩy Dù trong ngày 7 tháng 7, 1972, đến cổ thành đoạn đường dài khoảng một cây số, và bề ngang từ nhà ga phía cực tây đến làng công giáo Tri Bưu phía đông, khoảng cách cũng có bề rộng tương đương.
Trên khoảng đất rộng hơn cây số vuông kia, mười-lăm ngàn người lính của những đơn vị kể trên đã thay phiên nhau bò, trườn, ẩn núp, gọi pháo, đánh bom, ném lựu đạn, đánh cận chiến ngày lẫn đêm suốt đoạn thời gian liên tục 67 ngày, để đến ngày 14 Tháng 9, 1972 những người lính Tiểu Ðoàn 1, 2, 3.. 6, 8 TQLC đồng lần siết chặt mục tiêu, dựng ngọn Cờ Vàng bay lộng trên gạch đá điêu tàn, giữa tiếng đạn, khói thuốc súng của trận chiến đang hồi kết thúc..
Cờ lên!
Cờ lên!
Giữa vũng lửa
Quân, dân bật khóc nước mắt ứa
Một lần cờ bay trên thành xưa
Bao phần máu xương muôn lính đổ!
(PNN-Cờ ta bay Vàng Nắng Mới Quê Hương Với Tình Thương)
Người Lính Vẫn Sống Sau Trận Lửa Người Lính Vẫn Sống Sau Trận Lửa - Phan Nhật Nam