If you love someone you would be willing to give up everything for them, but if they loved you back they’d never ask you to.

Anon

 
 
 
 
 
Tác giả: Khế Iêm
Thể loại: Truyện Ngắn
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 771 / 3
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thời Của Những Kẻ Bị Ma Nhập
hàng men theo con đường mòn dẫn lên một khoảng đất trống. Nắng sẫm lại trên mặt biển mông lung như tranh. Không khí thoảng thoát, êm ả. Phía dưới là dãy nhà cất thành từng, ẩn dưới những tàn cây và sườn núi, nơi tụ lại một chút ồn ào, nhỏ nhoi giữa một khung cảnh đồi nước. Khói xám làm nhòe nhoẹt một khoảng chiều. Chàng mơ hồ như có tiếng ai gọi giật. “Thưởng... Thưởng... Anh Thưởng.”
Tiếng nói quen thuộc, hốt hoảng và trôi đi. Cô gái bước châm chạp, ngoằn ngoèo sau những lùm cây dại, mong manh cùng một chiều xanh rì với đá núi. chàng lầm bầm: “Đâu như Trúc thì phải” và la to:
“Trúc, phải không?”
Cô gái vẫy tay, mỉm cười, khuôn mặt trái soan nhỏ nhắn, hơi mệt mỏi. Chàng ngạc nhiên, ngực bị nghẹn lại. Một giòng suối êm ả của thiên đường? Một hòn đá xanh mang mang dấu rêu phong của ngày thơ trẻ? Chàng thấy cay cay nơi mắt. Chàng chẳng ngờ có thể bước ngược thời gian nơi dấu chấm li ti của góc biển này.
Chàng đỡ Trúc. Đôi mắt đỏ hoe nhìn ra một chiều rất vàng.
“Anh đến bao giờ?”
“Mới vài ngày. Còn Trúc?”
“Được hai tháng rồi, anh ạ?”
Chàng ngó Trúc vừa lạ, vừa quen, phảng phất nét hư thực của khoảng còn mất. Lòng chàng dịu lại như vừa bắt được một tiếng reo ngân trong trẻo, chút tâm sự lẻ loi của mảnh đất quê xưa.
“Anh đi một mình?”
“Tôi vẫn vậy. Tôi chẳng tưởng được lại gặp Trúc ở đây. Bây giờ tôi mới biết, quá khứ đẹp như một giấc mơ.”
“Anh nói thật?”
“Có bao giờ, Trúc nghĩ rằng tôi nói dối.”
o O o
Con thuyền ngả nghiêng, ở nguyên một chỗ. Nắng chói chang nóng bỏng; không gió, không mây, mặt biển phẳng lờ. Người bám trên thành tàu, ngồi bất động trên boong trong không khí oi bức đáng sợ. Chàng đứng dựa vào cột buồm, ngó lướt qua những khuôn mặt rười rượi. Ông già thu mình vào một góc, phát một cử chỉ buâng quơ. Chàng bực dọc, nói:
“Thật chả ra sao. Khi không lại...”
Biển mênh mông phủ đầy một lớp bụi nắng. Người tài công khuôn mặt vuông và gầy, chớm hiện vào một khoảng khắc hồ nghi. Chàng nghe một âm thanh run lên trong không trung như một nốt đàn trầm phiền muộn. Không gian rộng ra vô cùng. Con thuyền dính chặt trên bãi lầy. Nước đổi màu, đặc sánh, tưởng như một chất lỏng đang dần dần đông lại.
Người tài công nhìn xuống hầm tàu. Mùi dầu nhớt và ẩm ướt xông lên khó chịu. Ổ máy nặng nề như một đống sắt vụn.
“Phải chèo thôi. Hơn là chờ đợi.”
Không có tiếng nói, không một cử động nhỏ. Và sự sống thấp thoáng như một nụ cười gượng. Thời gian dãn ra, dài và lạ. Ông già thều thào:
“Khát.”
Người tài công lắc đầu, nghe ngóng những dấu vết từ biệt. Chàng thấp thoáng thấy những tấm ván rời ra, trôi tản mác trên biển xanh. Cảnh, người nhập thành những tiếng rì rào của gợn sóng. chàng chặc lưỡi:
“Mọi việc rồi cũng phải kết thúc.”
Đám người rải rác trên boong, trong hầm tàu cùng đưa mắt ngờ nghệch nhìn về một phía. Ở rất xa đằng chân trời, hiện ra một đốm đen. Người tài công chỉnh lại hướng buồm. Một vài người cố đứng dậy rồi lại ngã xuống; đứng dậy, ngã xuống, những động tác được lập lại rất lâu cho đến khi đốm đen hiện thành một chiếc tàu đang lớn dần. Những ồn ào nổi lên, rời rạc như một cơn gió. Người tài công nheo mắt. Chàng xoay người, nhìn quanh, nắng rát bỏng. Ông già nhắm nghiền mắt, tóc bay lẫn trong không khí mệt lả.
Một thanh niên nhô đầu ra ngoài mạn thuyền, nhoài người về phía chiếc tàu, lấy hết hơi:
“Đi đi... Đi đi...”
Am thanh khàn khàn, lạc mất, cùng lúc một thân người lăn xuống biển. Mặt nước vỡ ra và khép lại. Những đôi mắt không còn đủ sức ngạc nhiên, nhìn trân trân một đốm mây trôi. Con tàu không lớn thêm, cứ giữ nguyên một hình dạng cho đến khi từ từ nhỏ dần. Người tài công lắc đầu, cắt trái chanh lần xuống hầm tàu, vắt vào miệng ông già:
“Dậy mau, tới rồi.”
Ông già mở mắt rồi nhắm lại. Người tài công lần lượt nhỏ cho mỗi người vài giọt cho đến khi kiệt hết. Hơi gió lay động, thì thào. Nắng dữ dội hơn, nước réo sôi. Người tài công leo vội lên boong, thẫn thờ giữa một khoảng không mù mịt. Chàng lập lại:
“Mọi việc rồi cũng phải kết thúc.”
“Không lẽ.”
“Anh không thấy sóng gió đã ngưng hết và chúng ta chỉ còn nói được vài lời ngắn ngủi?”
“Anh câm đi.”
“Tôi.”
“Tốt hơn là...”
Chàng có cảm giác như con thuyền đang lướt đi rất nhanh. Mặt biển cong lại và rút lên cao, lên rất cao. Chàng nghe đâu đó nỗi hoang vắng. Nụ cười buồn, biếc lạnh. Bên tai lùng bùng một nhịp điệu đều đặn. Những hình ảnh chắp nối lộn xộn, thấp thoáng một khoảng đời...
o O o
Chàng và Trúc ngồi trên một phiếm đá phẳng. Nắng nhẹ, bay phớt trên sườn đồi. Chàng nhìn ra đảo, biển, núi bao quanh thành những mảng màu đậm nhạt, mông lung. Những ồn ào lạ mặt chưa kịp dập tắt những xôn xao của chuyến phiêu lưu. Chàng như kẻ chết đuối vừa được hồi sinh. Trúc nói:
“Anh thay đổi nhiều lắm.”
Chàng cười.
“Có ai lại trẻ mãi bao giờ. Thế Trúc đi mà không buồn à?”
“Em nhớ cảnh nhớ người, đến cả mỗi góc phố, con hẻm. Chẳng có ai quên được cội nguồn của mình. Quá khứ hình như thực hơn cả sự thực. Đến bây giờ, em vẫn phân vân trong những lựa chọn. Đúng hay sai, có lẽ đó là câu hỏi phải trả lời cho hết đời mình.”
Chàng lắng nghe, vẫn những âm thanh của thời nào, nhưng đã qua rồi tuổi trẻ và bồng bột. Giọng Trúc ngậm ngùi như đã thấm một thế sống. Chàng bình thản:
“Chúng ta chẳng còn đủ hơi sức để nhìn lại.”
Trong giây lát, cảnh vật phân hợp và chàng; nơi chốn sâu vắng, đang biến hình... Những giòng sông cứ chảy trôi mất biệt, lênh đênh những con thuyền, bến bờ, gợi nhớ một thời sinh ra và bỏ lại. Khói bốc lên lượn lờ trên những mái rơm cổ tích. Ngày và tháng bập bềnh theo nỗi quên nhớ. Chàng, kẻ thô kệch giữa một thế giới tinh quái. Mẫu thuốc tàn thầm ánh một ẩn tình... Chàng nói:
“Trước thì Trúc chán cảnh, chán người?”
“Người ta mỗi lúc mỗi khác, anh ạ. Giống như nước trôi đi mãi không bao giờ ngừng. Anh tin em bây giờ và đừng tin em ngày sau.”
“Nhớ nhé.”
Trúc cười, đôi mắt nheo lại, nhìn xuống bãi cát phía dưới, những hàng dừa cao vút và những đốm người di chuyển, chậm chạp. Sóng đuổi nhau loáng bạc, xô dập vào bờ đá. Mặt biển như một giải nhung sẫm.
“Chiều rồi.”
Chàng đứng bất động, nghe hơi gió thấm lạnh, và có cảm giác như, chỉ ở trên độ cao này, đúng lúc này, mới bắt gặp được một khoảng khắc lạ lùng của ngày.
o O o
Chàng đi dọc theo dãy nhà sàn, chia thành từng ngăn, vuông vức. Phía trước trống, lúp xúp những dạng người tíu tít giữa cái chập choạng của chiều trời. Khói bếp mù mịch chạy dài theo mái che, làm mờ đi những đường nét nghệch ngoạc màu xám tro. Chàng bắt gặp, như bất chợt, khu nhà là nơi ẩn trú lãng mạn sau chuyến phiêu lưu. Những tâm sự, nỗi u uẩn chập chờn đâu đây. Sự bình yên ẩn trong cô đơn và dày vò làm say những cơn say. Những bất trắc này qua, còn lại những bất trắc khác. Hạnh phúc chỉ là thoáng mát hiếm hoi.
Chàng leo hết một đoạn dốc gập ghềnh thì dừng lại, thấy thấp thoáng một bóng người quen thuộc đang lăng xăng nơi một góc tối mờ. Ánh lửa đỏ hắt lên một khuôn mặt khô gầy. Râu tóc bù xù khắc thành những nét bờ bụi. Vẫn là người của ngày cũ, bất cần và buông thả, lúc nào cũng muốn phá vỡ những khuôn mẫu. Chàng cười nhẹ: Phúc. Phúc của một thời hoài nghi, muốn lang thang khắp chốn. Bước chân hoang xốc xếch tận những hóc hẻm, sông đồi. Đời sống nhẹ tênh như làn khói thuốc. Mật của ngày tháng và ngôn ngữ của trần gian giống như tiếng chim kêu. Chỉ một chiếc lá rơi cũng đủ làm ấm lại...
Chàng đứng mãi, ngó xem, Phúc lóng ngóng, ngờ nghệch, những cử động lập lại, lúc ngưng lúc vội. Trời tối dần.
Chàng tới gần, gọi:
“Phúc!”
Phúc nhìn ra, đôi mắt kèm nhèm, ngỡ ngàng:
“Thưởng!” Chàng siết tay bạn:
“Cuối cùng rồi cũng... Tôi mừng.”
“Quả đất tròn. Nhưng phải có chút duyên may.”
Phúc kéo chàng tới chiếc bàn ngoài sân trống. Phía trước là vườn rau được quây kín bằng tôn. Chàng nhìn khoảng đất đồi, chiếc ghế khập khễnh, và Phúc vội vã trong cảnh mập mờ, bỗng có cảm tưởng mình đang sống ở một lán trại nào đó nơi rừng hoang. Cảnh cũ, người xưa như một nỗi nhọc nhằn.
Phúc đem trà thuốc ra:
“Anh ở đâu.”
“Khu B. Củi lửa cho xong đi.”
“Rồi. Mộng một ngày anh một bữa.”
“Thời tiết cũng đã thay đổi, cậu không thấy sao?”
Phúc bật quẹt, nhăn nhó:
“Biết thế nào được. Anh vẫn có tính xa xôi. Anh biết Hải không? Đi gặp bão, mất tích.”
Chàng trầm ngâm:
“Tôi nhớ chứ.”
Chàng đã nghe và thấy quá nhiều bi kịch. Hải, sống không phiền ai, lúc nào cũng cười được, vui tính như một lão ngoan đồng. Khi ở tù ra, chàng có ý định gặp Hải, hoặc là để tìm lại thời vô tư. Hoặc là dựng lại cuộc xung đột mà chàng đã từng trải qua một nửa đời người, để xem tại sao lịch sử lại tái diễn liên tục ở khắp nơi trên trái đất. Cuối cùng, chàng chỉ là kẻ vất vưởng như một bóng ma nơi những xó xỉnh tăm tối. Chẳng có tia sáng nào xoa dịu nỗi bứt rứt. Sự câm lặng như bức tường đá bít hết những nẻo đường. Rác rưởi, gầm cầu làm cho đời sống bệnh hoạn. Mọi gốc rễ bị lật tung, còn lại những vực sâu. Không có bông hồng nào dành cho những tình nhân.
Chàng hỏi Phúc:
“Vợ con sao?”
“Ở lại.”
“Cũng đỡ bận bịu nhưng lo nghĩ hơn một chút.”
“Tôi vốn dĩ ít tâm sự... Mọi chuyện như đùa. Mà này, sao ông lại ở đây?”
“Thì cũng y như cậu.”
Cả hai cùng cười. Chàng bỗng thấy Phúc trẻ hơn và lạ đi... lạc vào mênh mông. Khuôn mặt méo mó đến kỳ dị, khói thuốc tím, đỏ lờ mờ và kệch cỡm. Chàng lẩm bẩm: Phúc, Phúc... Phúc cuồng như một ngày nào chèo thuyền một mình đi làm Lưu Nguyễn. Chất phiêu lưu không bao giờ ngừng chảy. Mây trời có chát đắng cũng kệ, ngoài những bước chân gõ mãi trên mặt đường. Cứ lẩm cẩm như một lão già, đi tìm tới chỗ cùng những đầu suối, con sông.
Chàng nhìn Phúc, trên khuôn mặt còn ẩn một chút hoang mang. Chàng cười phá lên, cùng lúc xung quanh những tiếng huyên náo nổi lên. Chàng đứng lên, Phúc kéo xuống. Những bước chân rầm rập, những đám người chạy về một phía, lùi lại, và ùa tới. Từ những khung cửa đổ ra những bóng xám đứng đầy một khoảng sân rộng, dốc. Những chuyển động nhịp nhàng đôi lúc bất động và im bặt.
Phúc bình thản:
“Đánh lộn.”
“Lạ nhỉ?”
“Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Rồi anh sẽ biết.”
Chàng thấy lòng êm ả; nhìn ra một quãng đường vắng, không một người nào suốt dãy nhà trống. Cảnh vật trong một thoáng biến đổi và tưởng chừng không thực. Những ồn ào mất biệt như chưa hề xảy ra.
Chàng vươn vai, đứng dậy:
“Tối rồi.”
o O o
Đèn soi trắng những con đường, hắt vào khu nhà thành những vết loang sắc góc. Chàng đi qua dãy Âu Cơ, một đám người ngồi im lặng, lố nhố trước màn ảnh nhỏ. Biển tối đen. Sóng rì rầm với một vạch đèn lấp lánh, giăng ngang rất dài và xa: Thuyền đánh cá đêm. Chàng ngỡ đứng giữa một cảnh mộng... nơi một xứ sở xa xôi, có cụ già râu tóc bạc đang lắng theo tiếng thì thầm của mây núi... Thêm ánh sáng mờ ảo của những quán cà phê trải xuôi theo bãi cát, dưới những tàn dừa cao vút trong bóng đêm làm cho ký ức dễ trở thành huyền hoặc. Chàng tần ngần nghe những âm thanh xa vắng. Chàng nhớ tới Trúc, không ngờ cũng trôi nổi và bèo bọt như nỗi bất thường của đời người. Trúc của Văn Khoa hồi nào, hát hay và tài sắc đã làm cho chàng cứ tưởng đó là chỉ là thoáng mong manh của sương khói. Chàng đã mang hình bóng Trúc đi suốt một thời chinh chiến với xốn xang và mộng mị. Trúc bây giờ chỉ là những suy xụp của quá khứ và mỏi mệt vì thăng trầm.
Chàng theo con dốc, xuống khu trung tâm. Người đi lại tấp nập như một thị trấn đêm. Chàng nhớ những tối đi lang thang với bạn bè, qua những con phố, đùa bỡn với một vài cô gái để nghe những thanh âm ấm áp làm cho co dãn tinh thần. Thời gian chỉ là chớp mắt và trang giấy đã lem đầy dấu mực.
Chàng đứng lại, chào qua loa một vài người quen, nhìn những cô gái dập dìu với những bộ y phục sặc sỡ và cảm thấy ngột ngạt. Sự chật chội như giấc mơ không thành làm bực bội. Đâu đó còn rơi rớt những cảm xúc chưa lắng hết và chàng vẫn bị ám ảnh những kinh hoàng của chuyến đi; muốn ném trí nhớ để lòng không còn phải chồng chất thêm một biến cố. Chàng lẩm bẩm: “Giống như cánh chim cứ bay mãi để tìm lại một mối tình không có. Kẻ phiêu du thầm hỏi về chốn quê xa...”
Chàng thẫn thờ theo một lối nhỏ ra ngoài cầu tàu. Gió đêm mát lạnh, mang theo mùi ẩm ướt miền nhiệt đới. Bầu trời đen thẫm và đầy sao. Cát mịn ở dưới chân dấy lên nỗi xôn xao, nhắc nhở về một miền đất chàng đã sinh ra. Rằng mỗi người, đến lúc nào đó, đều phải sửa soạn cho một chuyến phiêu lưu. Rằng đời sống là nơi lưu đày thú vị. Rằng mẹ chàng có còn ngồi âm thầm ở cửa nhà mỗi chiều, và cha chàng có bận rộn với cuộc rong chơi? Và nơi đây, trong xó núi lặng lẽ và mênh mông có phải là chỗ khởi đầu cho một ý thức lưu vong.
Chàng dùng dằng, nửa muốn về nhà, nửa muốn ghé Trúc. Phía xa, trong khoảng sáng mờ, hiện dần ra một con thuyền nhỏ, chòng chành đầy người, lố nhố trên mũi sóng tối đen. Từ con đường bên hông bệnh viện, từng tốp người lác đác, đứng thành hàng dọc theo bờ. Con thuyền đảo một hình vòng cung, tiếng máy nổ ran, tan trong không. Ngoài cầu tàu, thấp thoáng mấy bóng người bất động, lặng câm như có sẵn từ bao giờ. Hàng người dài thêm bởi những vết người rải rác và đều đặn. Ánh sáng hắt xuống những khối hình lầm lì.
Con thuyền tấp vào bờ, khuất dưới gầm cầu. Những ồn ào, râm ran từng chập một, kéo dài theo... Cảnh vật ngưng đọng rất lâu, cho đến khi, một đoàn người mệt mỏi và tiều tụy từng người một, chậm chạp qua. Những dấu chân kéo thành một đường cày mỏng trên cát. Những khuôn mặt đờ đẫn cùng hướng vào dãy người đông cứng như bức tường đá. Giải cát mập mờ theo nhịp sóng vỗ. Và khi người cuối cùng lẫn vào một khu nhà, thì hàng người cũng biến mất, xóa đi những dấu vết, chỉ còn trơ trọi một bóng người mờ xám, đứng bất động, mịt mù trong gió.
o O o
Trúc nhận được thư mẹ nàng, vội vã lách ra khỏi đám người rồng rắn, đang xô đẩy như làm trò giữa nắng. Nàng không kịp nghe cái cảm giác lo sợ, ẩn một điều bất thường, mà chỉ thấy chớp nhoáng nhà, người, chao đảo và trôi đi. Cây trơ rễ khi mặt đất từ từ hạ xuống. Nàng chơi vơi trong hố sâu. Nước mắt ấm, làm héo một làn môi. Và giữa cái khoảng bụi mờ ấy, Hưng đang vùng vẫy giữa một giòng sông cuộn chảy để trút đi những phiền muộn vô lý.
Thư báo cho nàng biết, Hưng đã mất sau một cơn say. Nàng chỉ đọc được vài chữ và cố dằn nỗi tức tưởi. Nàng có liên hệ gì với tình yêu rồ dại và cái chết của Hưng. Nàng có sai quấy gì khi lựa chọn cuộc đời lưu vong, bứt đi những đọa đày và ràng buộc, ném những lỗi lầm vào quá khứ để tìm cho ra ý nghĩa của nỗi bất hạnh. Không gian tối sầm, và nàng đang quanh co ở lưng đồi, con đường trơn trượt dẫn xuống một thung lũng hoang vắng. Đâu đó vọng lại âm vang của cảnh đời man dã. Rừng núi nói với nàng về nỗi cô liêu? Nàng sợ. Nàng chỉ muốn làm kẻ lòng không, trở về chốn cũ. Nơi chim hót ngợi ca đời thanh bình. Nơi mà buổi sáng, buổi chiều có hương thơm và có thể nếm một chút mùi vị dân dã. Và nàng bỗng thấy con nàng chơi chập chờn trước nhà dưới dàn hoa lý. Nỗi vui buồn chớp nhoáng và xa xăm. Hải bay là đà trong khoảng rợp bóng rồi tan đi. Ngày bôi xóa thành cánh đồng xanh dờn, trầm trầm nắng. Nàng la toáng lên.
Trúc thức dậy khi những ồn ào của trẻ con dưới ngõ dâng lên. Nga ngồi cạnh, mừng rỡ:
“Tỉnh rồi.”
Từ lan can của hai bên vách, những cái đầu cùng thò vào một lượt:
“Tỉnh rồi.”
Nàng ngước mắt nhìn ra, ánh chiều hắt vào những khuôn mặt lẫn lộn, cứng đờ, không cảm xúc. Nàng thấy mẹ nàng, Hưng, bé Hải và những người xóm giềng của phố phường ngày trước. Những chiếc mặt nạ động đậy, biến mất, buồn bã như điếu thuốc dở, cháy xén trên lề đường. Căn nhà rộng và trống trải. Nàng lơ mơ nghe tiếng gió rì rào và chân tay rời rã như sau một cuộc gây gỗ với Hưng. Hưng với những cơn say bí tỉ thường xuyên, chỉ trở về để đập phá. Nàng không lường được chồng nàng đã thành thú dữ.. Hưng với đôi mắt đỏ ngầu, long lên, với râu tóc như rừng, là gió lốc và tai học… Và bé Hải, co rúm ở góc nhà, mặt tái mét vì kinh sợ. Nàng thù ghét Hưng vì bản chất cuồng nộ đã làm thương tổn đời nàng. Và Hưng thù ghét nàng vì ghen tương bệnh hoạn.
Nga lay gọi:
“Trúc… Trúc…”
Nàng mở choàng mắt.
“Chị có sao không? Ăn gì nhé?”
Nàng lắc đầu. Căn gác vuông vức, ngổn ngang những túi, giỏ treo đầy trên vách. Trúc nằm trên sàn, gối đầu trên một chiếc chăn mỏng. Nga dùng khăn ướt, lau mặt cho bạn rồi với lấy hộp nước cam:
“Chị uống một chút cho khỏe!”
Trúc cười nhẹ:
“Chị bị trúng nắng thôi. Khí hậu ở đây khó chịu quá.”
Nàng không muốn Nga biết nỗi đau xót của riêng mình. Nàng tự nghiềm ngẫm xem, sức chịu đựng sẽ đưa nàng đến đâu. Đã lâu rồi, từ khi bé Hải mất, nàng biết, con nàng đã giải thoát cho nàng khỏi những hiểm họa của mối liên hệ ngu ngốc. Nàng bỏ Hưng, bỏ miền dất đầy tị hiềm, dối trá và hiểu cái giá của sự quên lãng:
“Ngày lại hết rồi nhỉ?”
“Vâng.”
“Chẳng có lời nào thốt ra vào giờ cuối!”
“Chị nói sao?”
“Không... ở đây riết, thành lẫn mất.”
“Đừng nghĩ ngợi gì nhiều, chị ạ.”
Nàng gượng ngồi dậy. Lá thư vẫn còn trong túi. Khoảng hiên trống nhìn lên đồi, loáng thoáng một chút nắng vương vãi trên mấy luống rau non. Hương chiều như một giấc mộng thầm. Hoàng hôn, nàng lẩm bẩm vẫn là vẻ đẹp của những nỗi buồn:
“Mai đi lễ chùa, Nga nhé.”
o O o
Nàng thiếp đi rất lâu, cho đến khi hơi nóng hầm hập từ mái tôn hắt xuống, làm ngạt thở. Nàng cảm thấy ê ẩm. Những âm thanh, những câu chuện huyên náo báo cho nàng biết, trưa rồi. Nàng nhổm dậy.
Nàng nghĩ đến Thưởng, cả tuần nay không thấy chàng đâu. Ở đây thì có gì bận rộn, ngoài một điều, thời gian cứ nhão ra. Thời tiết, những bế tắc và kham khổ làm phát bịnh. Nàng đang cần Thưởng để chia sẻ vài điều. Hôm gặp Thưởng, nàng biết, chỉ có chàng mới khỏa lấp được nỗi trơ trọi. Chàng trai ít nói và thầm lặng ngày nào nàng chỉ nhìn như một thoáng ngạc nhiên. Nàng mải đùa bỡn, vui thú với những trò chơi trẻ trung, như một bông hoa khoe sắc để hưởng hết sương mai.
Những cuộc du ngoạn dài, những đêm hát, giữa một không khí bùi ngùi những biến cố. Thưởng mất tăm trong nỗi xôn xao. Thưởng chỉ là bọt nước lặng câm trong cơn sóng lớn.
Nàng sửa lại mái tóc, khuôn mặt phờ phạc trong gương, nhìn ra ngoài, nắng chói mắt.
Khói bếp mịt mù, suốt một dãy nhà. Buổi trưa bận rộn nấu nướng, người lui tới nhộn nhịp trong một khoảng hành lang, chật chội với bàn ghế và kệ lò. Những tiếng réo gọi, rộn ràng làm chuếnh choáng khung cảnh, tưởng chỉ xảy ra trong thoáng chốc. Nàng nhìn ra con đường quẫy, gập ghềnh không thực. Cây hoang trên gò đồi vẫn có điều gì chưa nói hết của một mãnh đất lâu đời trôi nổi giữa thiên nhiên. Nàng quên Thưởng, cố nán với cảm giác phân vân, để tạm dấu những phiền muộn. Trong ánh lửa bập bềnh những mảnh đời tứ xứ. Nàng hiểu, rồi mỗi người một ngả, thời gian chưa đủ những dấu vết nhưng những cuộc tiển đưa cũng đã có nước mắt ngậm ngùi. Nàng lờ mờ nghe tiếng Nga kêu:
“Chị Trúc!”
o O o
Buổi sáng, Trúc và Nga lên chùa đồi. Sương đêm vẫn còn dịu dịu trên phiếm cỏ và đá núi. Công viên vắng, nắng lốm đốm trên cầu trượt, xích đu, phớt vàng mấy chòi rơm cất sơ sài dưới chân dốc. Trúc nhớ những ngày theo mẹ đi trẩy hội. Trong đôi mắt của cô bé mờ ánh những rặng đồi xa xôi, mùi đất thở và bước chân mênh mông. Gió mai rười rượi trên mỗi con đường, góc phố, những nơi chốn phiêu lãng của đời nàng. Khói của năm tháng và hương quê ngờ ngợ trong cõi trôi dạt bâng quơ.
Đứng ở lưng chừng, ném cái nhìn xuống dưới, sân quần vợt, trường tiểu học và từng dãy nhà chồng chất lên nhau, tưởng như những nét phác vẽ một đô thị chưa hoàn chỉnh. Lác đác bên mấy đám rau, khu chợ, lẻ loi vài bóng người lạc trong tiếng hát mang âm hưởng của xứ sở đã mất. Nàng nao nao trong lòng:
“Hãy sớm, Nga đợi đây, chị xuống mua thêm lễ.”
“Cũng đủ rồi.”
“Kệ, tiện cầu cho cháu Hải.”
Nàng không kịp nói hết câu, hấp tấp quay đi. Những bậc đá dài suýt làm nàng trượt chân. Nụ cười tắt theo những giọt nước lăn trên má. Ban mai, nhưng không phải ban mai. Chẳng có bằng chứng nào cho sự tồn tại. Nàng sẽ gặp lại con và Hưng để nghe cái cảm giác hồi phục sau vết thương đau. Nàng tưởng đến một mái ấm êm đềm, phế mặc cho giòng đời cứ vất vưởng trôi. Thắp ngọn nến để nếm chút mật ngọt hạnh phúc.
Qua chiếc cầu nhỏ, khúc đường ngắn, đầy nắng sóng sánh. Hàng quán vừa bày xong với những màu sắc vui mắt. Cô gái ngồi trên võng treo, nhoẻn miệng cười. Ôi! sao giống một góc chợ nào đó ở quê hương. Khu bán, lợp tôn thấp, được chia thành từng lô nhỏ, nhìn suốt qua một khu đất rộng. Nàng mua vội ít trái cây rồi trở lại...
Những dấu chân mất tăm theo giải cát lan nhanh, nhập vào một màu rêu nâu. Nàng thấy mình đứng giữa một vùng sình lầy. Xa xa vài túp lều đứng chơ vơ trên bãi đất quanh co như trong bức tranh tàu cổ. Chiều buồn buồn, không mây không gió. Chiếc giỏ nhẹ tênh. Nàng chợt nhớ mới bỏ xong hàng, xăm xăm men theo con đường đất nhỏ ra ngoài lộ cái. Nàng thấy chán chường với công việc, lúc nào cũng bị cuốn hút như chong chóng. Hết đi lại về cho kịp với giá cả và bất trắc. Rồi những kèn cựa, những soi mói, những đôi mắt dọa dẫm như thể nàng là kẻ tội phạm. Kẻ độc tài được đánh giá là sáng suốt. Kẻ bịp bợm giả danh làm anh hùng. Nàng tự ném mình vào bóng tối để nghe những bước chân nặng nề, âm âm nỗi suy mạt.
Lần mò mãi mới ra tới con đường nhựa ngoằn ngoèo giữa những mảnh ruộng trơ rạ. Thỉnh thoảng mới có một chuyến xe chở đầy khách chạy vụt qua. Nàng bồn chồn nhìn những lùm cây xa xa, thấp thoáng vài mái lá. Vẻ nghèo nàn càng thêm hiu hắt. Nàng mong về sớm với con. Chưa có lần nào, nàng nhớ bé Hải lạ lùng như lần nầy. Đôi mắt trẻ thơ, ngơ ngác đứng ngó mẹ về. Ôi, cái tình mẹ con đằm thắm và ấm áp!
Nàng xuống xe thì trời đã khuya. Con hẻm sâu, không một bóng người. Nước đọng thành vũng sau cơn mưa làm cho mặt đường rộng và nhớp nháp. Vài cánh cửa hé mở, hắt ra cái im vắng tẻ lạnh của đêm. Con ngõ quanh co. Nhà cửa không đều, ngả thành mảng xám mờ. Gió thấm vai và mệt. Những tàn cây mang đầy bóng tối. Không khí lạ, hun hút trên nền trời cao, trong. Một cảm giác kinh sợ bỗng nhiên như một lằn roi quất trên da thịt, rất nhanh đến nỗi nàng không kịp bắt được những phản ứng của mình. Căn nhà từ xa, tràn ánh sáng. Cửa mở toang, mong manh. Một vài người lặng lẽ như những chiếc bóng vẩn vơ giữa một khối trắng trong suốt. Nàng trố mắt, chân bước nhanh như chạy. Linh tính về một điều gì khủng khiếp làm tê tái lòng.
Nàng chỉ vừa kịp nhìn mặt con, rồi ngất đi. Chiếc giỏ văng khỏi tay. Không có tiếng khóc nào bật ra, ngoài một chút ồn ào nơi đám người đang tụ quanh một chỗ. Căn phòng đồ đạc lèo tèo, chiếc giường con kê ở giữa, đứa bé nằm thẳng, mền phủ kín. Những người đàn bà tản dần, lăng xăng bên Trúc. Người đàn ông duy nhất say mèm, rũ rượi ở góc nhà, khuôn mặt chìm khuất trong một thứ bóng tối hư thực. Những cử động trượt lướt, những âm thanh khe khẽ trôi đi. Nỗi buồn như không khí đọng trên mắt môi da thịt, làm mê cả giấc mơ. Trúc nằm dựa trên cánh tay bất động của một hình thù được khắc họa vụng về, lem luốc. Tất cả ngừng trong giây lát và mãi mãi rồi tiếp diễn tưởng chừng như lập lại. Sự sống và chết hòa hợp và đông sánh. Không gian rộng và sự vật càng lúc càng được thu nhỏ cho đến khi tất cả đều biến mất, chỉ còn căn phòng trống trơn chứa đầy một thứ ánh sáng kỳ dị.
o O o
Con thuyền nhỏ, lướt đi, nổ ran trên sóng. Hai bên bờ thấp thoáng những sinh hoạt quen thuộc. Nhà cửa, vườn cây và những bóng người, gà vịt, chạy lùi thành cảnh của một cuộn phim quay chậm. Nắng óng ánh, bồng bềnh nỗi nhớ tiếc khôn nguôi. Trúc ngồi thu trên lườn ghe, cố hình dung khuôn mặt mẹ nàng, mắt đỏ hoe, lặng lẽ trong đêm. Nỗi mất mát, tiếng lầm bầm đơn điệu như mỗi chiều, bà thường ngồi kể một mình về những niềm vui đã mất. Bà gạn lọc và quên hết những gian truân suốt thời con gái, phải làm dâu trong một gia đình quan cách và phong kiến. Bà than, tâm tình con người sao càng lúc càng nghèo đi. Bà mơ bước ngựa kiệu bên sườn đồi. Con thuyền thả trên dòng sông êm... và cứ thế lôi kéo bà về một thời cổ xưa...
Nàng chạnh lòng về những liên hệ thân mật toát ra, cả trên những vật dụng, những xó tối sáng nơi căn phòng nàng đã sống. Chiếc bàn, chiếc ghế và bình hoa mỗi ngày nàng hay cắm một bông hồng cho không khí dìu dịu thơm... Và cha nàng vào những lúc trời còn mờ mờ đất, chậm rãi hút thuốc, xa vắng vào một thế giới không thực mà nàng hay đùa là thế giới giả. Bây giờ nàng mới hiểu thế nào là cõi bình yên và đau đớn của tuổi già. Nàng cảm được cảnh chia ly mà tiếng nói bị tước đoạt, không gây được âm vang nào ngoài một nốt đàn trầm bật tắt trong hư không.
Con thuyền ra đến ngã ba sông, hãm máy, sang người qua một chiếc ghe lớn, đậu khuất sau tàn dừa dại. Nàng leo vào một ô cửa, lo ngại nhìn một lớp người nằm dán mình dưới sàn ghe. Những ánh mắt cùng ngó về một phía là những chuyển động duy nhất trong khoảng không bị ép chặt lại. Trên ghe trống trơ, dưới hầm bít kín. Đám người xếp như một ngăn cá mòi, không nhúc nhích nổi, thỉnh thoảng phát ra những tiếng cựa quậy ngắn, đục cùng với những hơi thở nặng nề giữa một không khí đang đặc lại. Trúc nằm cạnh một cô gái, hé nhìn ra một khe hở. Giải sông trắng, mênh mông. Nàng muốn thấy cho hết những lùm cây, màu sắc, mùi vị của sông nước, đường nét của từng lượn sóng, quang cảnh cuối cùng có thực. Một chút ngậm ngùi, lo lắng làm rướm nước mắt. Cô gái nói:
“Em sợ quá...”
Nàng chép miệng:
“Chật như nêm người.”
Nàng nói lảng để tự trấn tĩnh mình. Người đàn ông gân guốc, ngồi trên mũi, cầm sào, nhìn đăm đăm về một hướng, không một cánh chim bay, không một chuyển động trên suốt một nhánh sông dài mút mắt. Gió hây thổi.
o O o
Chùa nằm trên khu đồi nhỏ, sát biển. Phòng Hội và một căn thờ Phật, cùng nhìn ra chiếc sân vuông, lát gạch. Bức tượng Quan Âm, dẫn xuống bậc tam cấp. Nép bên lưng chừng núi là tượng Phật Di Lặc. Chênh chếch bên trái, hòn đảo hoang màu gạch cua, sóng xô trắng, lềnh bềnh với mây nước.
Trúc và Nga ngồi nghỉ trên thềm, nắng vàng chói, tung tóe. Nhà rộng thênh, phảng phất chút khó hiểu của cảnh chùa Tàu. Khói nhang len lỏi qua những ô liếp tre. Gió rì rào mang theo nỗi xao xuyến, vang vất những đời sống xa lạ. Mùi của biển, vị mặn chát của thảm xanh đang run lên. Nàng nghe loáng thoáng tiếng con gọi... Mặt trời vẫn rọi xuống những tia nắng ấm. Biển cả êm đềm và man mác. Và cây lá đang kể về nỗi hoang vắng. Nàng véo trên da thịt và cảm giác đau nhói. Rõ ràng Đảo, Người và trưa ngày chưa tới. Rõ ràng sáng tối vẫn thực hiện như hơi thở và tiếng nói... Nàng kêu to, tiếng rền dội lùng bùng lỗ tai... Nàng thấy Nga bối rối, loạng choạng ngã. Khuôn mặt tái xanh, thất thần. Nàng hoảng hốt... Đồi cao hơn, phồng ra, mặt đất rặn nứt và cây cối xiên xéo. Những pho tượng đang sống lại cùng với thế giới tăm tối. Thời gian quay ngược, cảnh người dị hợm như ở một thời kỳ nàng chưa hề biết. Nàng nép mình sau vách tường. Những cảm xúc và ký ức mất dần, và nàng hiểu mình đang nhập vào một thế giới bất động. Nàng rơi, rơi mãi... Chút ý thức còn sót lại soi rõ một đường ranh mong manh: Vực sâu. Nàng cố níu kéo lại trí nhớ để thoát khỏi tấm tuồng kỳ dị này, nhưng đã chậm. Căn nhà chồng chất những âm thanh quái đản. Nàng đánh mất cuộc đời thực, lờ mờ những hình ảnh, kỷ niệm và mất mát...
Nàng đứng lẫn ở góc nhà, thân thể cứng lại, thành tượng. Đâu đây thánh thót tiếng chuông mõ khoan nhặt, hiện dần trong hương khói, một khối người đứng thầm thì những âm sắc khó hiểu. Khóa lễ, tiếng kinh cầu giữa không khí lạ lùng, kéo dài bất tận. Cho đến lúc, đám người di chuyển từng người qua một vòng nhà, ra sân, bọc quanh Phật Quán Thế Âm. Họ cúi đầu trước mỗi pho tượng với một cử động nhẹ nhàng, chậm rãi. Những gót chân nhón lên, phớt trên nền gạch làm cho thân người được đẩy tới từng khoảng ngắn. Đoàn người vẽ thành một đường cong khép kín, dẫn đầu bởi hai người mặc áo thụng đen, cầm chuông mõ, phát ra những âm ngân rời rạc và đều đặn. Nơi phòng Hội, người ngồi chật ních theo từng dãy bàn dài, không ngớt cựa quậy trong không khí oi bức đến ngột ngạt. Những chuyển dịch bất động từng chập một, khi mờ khi rõ, nhanh như chớp mắt... Rồi ngừng đọng rất lâu cho đến khi chỉ còn lảng đãng chút im vắng. Căn nhà trống, xiêu vẹo. Những pho tượng mất tăm. Mặt đất lờ mờ tàn nhang và bụi bặm. Quang cảnh hoang phế, không sinh khí, không vết chân người.
o O o
Nga và Trúc qua khu nhà thờ, ngôi nhà Nguyện, tượng Đức Mẹ. Thấp hơn, khuất sau tàn cây, Chúa Jésus trên thánh giá mang vẻ buồn thảm. Đứng bên đài tưởng niệm, ném mắt xuống triền đá dựng, mới nghe được hết cái nhỏ nhoi, muôn thuở.
Nga nói:
“Ở đây thấy lâu quá, chị.”
“Thời gian làm trò xiếc, quay vòng tròn đến chóng mặt. Mỗi người lại mang một tâm sự nặng như đá tảng.”
“Vâng.”
“Rồi trải qua những nguy hiểm... Đôi lúc chị giật mình, sao lại sống được giữa cái cảnh hỗn độn và khó khăn này.”
Nàng lẩm bẩm: “Mỗi người tự đóng kịch với chính mình và đùa bỡn mãi trong cảnh mê muội.”
“Chị nói gì?”
“Chị thử mò mẫm để gầy một đốm lửa...”
Nga ngần ngại:
“Em muốn hỏi chị một điều. Nhiều khi thấy chị khó hiểu?”
“Chị muốn bóc trần mình ra, nhưng lòng cứ rối như mớ bòng bong. Chị nói lung tung, em đừng để tâm. Chỉ lượm nhặt rác rưởi của người, rồi chết đuối với những lầm lẫn.”
“Em thì đơn giản...”
“Phải. Chị dã làm phiền em quá nhiều. Bắt em phải chia sẻ với chị những điều đáng buồn.”
Trúc khóc. Những giọt nước mắt lăn đơn độc và chậm rãi trên đôi má chưa phai hết nét thanh xuân. Nàng cười, làm ngọt lịm trái cây non...
Nàng nhìn Nga, khuôn mặt thanh thoát và hiền hậu, và thầm nghĩ: “Nga hạnh phúc. Mặt trời vẫn chiếu sáng và đêm trăng vẫn đẹp. Chỉ có đời người phải đổi thay...”
Đột nhiên, nàng cảm được một âm reo hiếm hoi của tiếng chim kêu, loại chim không có ở quê hương, loài chim biển... Rừng già và hoang dã vẫn là nơi ẩn chứa được cả cái mộc mạc lẫm thâm hiểm. Và tìm đến bao lâu mới thấy được suối nguồn trong trẻo. Hoặc là có phải mỗi người cứ tự đày đọa mình bởi những điều không thực. Và ở Nga, có phải là mọi ý thức đều tiêu ma bởi một đời sống bình thường, không mộng mị. Nàng nhìn Nga, nhìn mây trời như một giải lụa hiền hòa trôi trên mặt biển biếc.
Nàng và Nga chui vào con đường mòn dẫn xuống ghềnh đá, chồng chất lên nhau. Bức tượng ông già đang cố gắng kéo một cô giá, hướng về cầu tàu. Khuôn mặt gân guốc, tóc búi tó là hình ảnh dân dã ở quê hương. Có một điều gì buồn bã và cô đơn nơi góc biển này mà người đắp tượng muốn gởi gấm qua một bi kịch? Thời gian chừng như chỉ làm trầm trọng thêm nỗi thương đau. Nàng vẫn ra đây khi sáng khi chiều và thấy nỗi buồn cũng biến đổi, khi chói chang, khi trầm mặc và ngạc nhiên như ý nghĩa cũng có mầu sắc.
... Ông già đạp trên gợn sóng, động đậy. Cầu tàu vắng, không người. Bãi cát vàng chạy đến chân đồi. Dừa xanh và cao. Không khí phủ một chút u mặc. Gần bờ, chiếc tàu sắt nằm nghiêng, khói thoảng bốc trên mặt biển đỏ. Ông già ướt sũng, đỡ cô gái, ngồi dựa gốc cây, vẽ một lườn cát dài. Đôi mắt mệt mỏi và tuyệt vọng rũ quanh khoảng cô quạnh. Sự sống biến mất trong âm thanh rì rào của gió và sóng. Cô gái nằm bằn bặt, lạnh lẽo, sâu và mênh mông.
... Trúc choáng váng. Nàng thấy mình bị quay trong chân không. Gió xoáy trắng. Nàng nói:
“Về thôi.”
Nga dẫn nàng đi luồn trong bóng râm. Đường gập ghềnh, vướng mắc những cây cành, đây đó vài cặp trai gái đang ôm nhau. Những mối tình bụi rậm? Ngày hoen ố những giấc mơ và cõi lòng han rỉ. Chẳng có cuộc vui nào đủ làm nhẹ cái gay gắt của nắng, cái bực bội của muộn phiền, và đất đá vừa rực rỡ lại vừa hôn ám.
Nàng và Nga xuống một cầu gỗ dài dẫn ra bờ biển. Thời gian nhão nhoẹt và trơ trơ. Chiếc tàu sắt lún sâu dưới cát, rúm ró là dấu vết hủy hoại và giá cả lưu vong. Những bước chân nhẹ tênh, chập chờn trên chiếc cầu càng lúc càng dài ra. Hai chiếc bóng chuyển động mờ mịt, tại chỗ như chẳng bao giờ dừng lại.
o O o
Thưởng ngồi nơi một chiếc bàn khuất. quán đầy người và khói thuốc. Tiếng nhạc ồn ào cuốn đi những câu chuyện chỉ còn lại những dạng người trầm lặng, khoan hòa và đờ đẫn. Trần quán thấp, vách và cửa được khoét đều hình ô tổ ong, mang cái không khí lãng mạn thời những nghệ sĩ dã thú. Chàng vẫn thích ngồi một mình, nhắm nháp chút xưa cũ, thở một chút lênh đênh, nghe đời sống trần trụi và ma quỉ.
Cửa mở ra nhà Bưu Điện, từng hàng người còn đợi chờ. Chàng thấy Phúc ngồi lơ đãng trên một thành cây. Chàng len qua dãy ghế, vẫy gọi:
“Phúc.”
Phúc quay nhìn, cười đứng dậy. Chàng trở vào, gọi thêm một gói thuốc. Người hầu bàn đi lại như một cái máy. Bàn ghế kê sát nhau, chỉ chừa hai lối đi chật chội. Nhạc chuyển về một giòng sông xưa, u hoài với nỗi niềm của đôi tình nhân giữa khung cảnh chiến tranh, chán chường và trụy lạc. Phúc kéo ghế lặng lẽ:
“Anh có thư không?”
“Không.”
“Tôi mới được thư nhà.”
“Có gì vui.”
“Thư của nhà tôi. Tôi không đọc hết được. Thế mới biết, khi đi xa, con người ta lạ thật, rất dễ xúc động vì một cớ nhỏ. Dường như lòng hoài nhớ...”
“Cậu tình cảm nhiều. Ký ức làm ngắn thời gian...”
“Lúc nào anh cũng muốn ruồng bỏ...”
“Tôi không làm nó thức dậy. Tôi muốn quên đi nhiều thứ cũng như ai cũng muốn trở về thời thơ ấu. Tất cả chỉ là câu chuyện viễn vông. Cậu cứ sống như cậu đang sống bởi vì đó là thực tại.”
Phúc yên lặng, ngoáy ly cafe. Thưởng nhìn quanh, chàng muốn tìm một thứ thực tại, thực hơn cả thực tại chàng đang sống. Quá khứ đã thuộc về quãng đời huyền hoặc. Và chàng vẫn bướng bỉnh phá vỡ nỗi bình yên. Chẳng có gì mới mẻ khi người ta sống để ý thức về một cái chết. Chàng thấy Phúc chừng như đang ẩn vào một cõi nào đó. Ít hay nhiều ai cũng phải lột xác để mà lưu vong. Chàng nói:
“Chẳng ai mở được cánh cửa.”
”... Hay đóng lại. Tiếng nói cũng đầy những ngược ngạo.”
“Phải. Có khi nào cậu nghĩ rằng mình đang bị ném vào một thế giới mà mình chưa biết? Ta có cần nhổ rễ mọi ý thức để trồng trọt một vụ mùa mới? Và như vậy, có thể chúng ta đang lập lại những lừa dối?”
Phúc ngẫm nghĩ:
“Cứ để nó trôi lềnh bềnh như bèo bọt mà lại hay.”
Chàng ngó Phúc và hiểu biết cái ghê gớm của một người đã trải qua bao nhiêu những bạc bẽo và gian truân. Phúc đã thuộc về một chốn vô danh. Chàng cười:
“Chắc khi lập gia đình, hai vợ chồng trôi vào nhau.”
“Đúng, anh ạ. Có bao giờ tôi ý thức về đời sống lứa đôi đâu. Nó tình cờ như ta sinh ra, lớn lên rồi ngồi lại với nhau.
Chàng nhìn ra ngoài, mặt trời lên cao. Nhưng quán vẫn còn giữ cái không khí ẩm sắc của một khoảng thời gian đã ngưng lại. Nhạc kéo về một đêm miền nhiệt đới, lang thang ngoài bãi sông, có gió reo và chút tình dịu ngọt. Hương thơm của cỏ làm rộn những giấc mơ. Lời thì thầm...
... Và những dạng người co ro, phạc phờ trong khói thuốc. Vách quán cong lại, những mái tóc dài ra, cánh tay gập thành những đường gấp khúc không đều. Âm thanh xoáy sâu rồi tắt ngấm. Giữa lúc, từng người một, ngập ngừng bước ra khỏi khung cửa. Quán trống dần. Ly tách để ngổn ngang trên bàn, thoắt bay vào phía sau quầy. Chàng và Phúc đứng dậy, quán vắng, giống như nhà hoang.
Phúc nói:
“Thôi về.”
Chàng ngần ngại, dừng ở cửa thư viện. Sách trên giá, là đà rơi, rải đều trên hai dãy bàn dài. Những mái đầu cùng một độ nghiêng, che khuất những khuôn mặt bất động. Quán lại dậy lên những tiếng gào rú cuồng nộ. Từng tốp người tuôn vào từ từ và đầy ắp.
Chàng đứng một mình, mênh mông với nắng, đợi chờ như chẳng đợi chờ gì.
o O o
Thưởng ngồi bên Thục giữa cảnh vườn râm mát. Gió xào xạc đùa mấy chiếc lá khô trên ô cỏ. Chàng băn khoăn, cố nghe trong lòng mình xem có gợn lên điều gì đủ gợi lại quãng ngày êm đềm với Thục. Chàng tự nhủ: “mối tình của tro tàn,” và muốn tránh né. Nhưng Thục vẫn còn đầy sôi nổi và khát vọng thời con gái. Tình yêu đối với nàng cũng cận kề với nỗi chết. Cuộc chiến tranh ba mươi năm với những thất bại và thảm cảnh của nó, tạo thành trong chàng sức phản kháng mạnh mẽ. Chàng hiểu mình phải cô độc trong suốt phần đời còn lại. Đôi mắt chàng vẫn còn rực cháy như trái tim nhưng là trái tim muốn dựng lại một cuộc chiến dữ dội với tất cả sự trong sạch của nó.
Chàng nhìn Thục. Nắng lốm đốm trên những khoảng xanh làm đôi má nàng hồng thêm. Mắt và môi đủ chân thật và liều lĩnh. Thục nhìn chàng nói, nhẹ và trong:
“Lâu nay, anh lạ quá.”
“Em cũng vậy. Anh thấy em không như những ngày trước.”
Thục thảng thốt:
“Sao?”
“Có thể là em đẹp hơn.”
Chàng nói trớ đi. Tiếng chim kêu đâu đó loáng thoáng tâm sự của một cặp tình nhân. Chàng lắng tai nghe, qua những hàng cây kẽ lá, chẳng có ai ngoài những thanh âm thánh thót.
Tiếng cô gái:
“Hoa đẹp ghê. Em chưa thấy bông hồng nào to như vậy.”
“Đó là bông hồng dị thường dành cho những người yêu nhau.”
Im lặng một lúc. Chàng nghĩ rằng họ đang hôn nhau. Rồi tiếng cười ròn rã đuổi theo, loãng ra trong một khoảng mà chàng cho rằng phải đủ rộng như một đồng cỏ. Chàng tưởng như thấy một đàn bò nhởn nhơ trong nắng bạc. Cặp tình nhân chạy mãi cho đến lúc chỉ còn hai chấm nhỏ. Bình nguyên và nền trời nhập làm một, thành một không gian phẳng. Tình yêu đã để lại dấu vết vĩnh cửu trong thế giớ màu sắc.
Thục nói:
“Em không hiểu anh.”
Chàng chậm rãi, cầm lấy bàn tay nhỏ, mềm mại của Thục:
“Tình yêu không có đâu, Thục ạ.”
“Em không bận tâm gì cả. Em cứ yêu anh.”
Chàng cười:
“Em ngang bướng lắm. Đã từ lâu, anh loay hoay tìm một khẳng định. Anh là kẻ vô lại, không thể yêu ai, ngoài bụi bậm.”
“Anh sắp hóa rồ rồi sao? Em không nghe anh nói. Em chỉ biết rằng, em yêu anh. Điều đơn giản ấy có thực.”
Chàng hôn lên má Thục, nghe hương vị của đời sống dâng lên. Chàng chẳng hiểu, một bên là những cảnh man rợ chàng đã trải qua, một bên là mênh mông của những niềm vui. Chàng chẳng thể nào từ chối được sao, nỗi tê tái và êm ả của mỗi chiều ngày. Chàng nhìn Thục ngại ngùng, nhớ đến Thắng anh Thục, những thuở còn đôi mươi... Thắng đã lao vào chiến trận như chàng, nhưng lại chẳng thể trở về. Trên đôi mắt của chàng trai chỉ còn kịp gởi nụ cười nhân hậu. Ngày được tin Thắng mất, chàng cũng mới trải qua một trận đánh khốc liệt. Hậu cứ tiểu đoàn mang cái không khí thê lương của đợi chờ, những dấu vết tổn thất. Chàng phải trốn chạy tiếng than khóc, ra quán tìm một góc tối, một mình ngồi uống say ngất trong đêm dài vô tận.
Nắng nhạt bớt, lướt trên tàn cây. Gió hơi se một chút và chiều về gọi theo lũ chim sâu. Quanh quất không người. Chàng quàng qua đôi vai no đầy của Thục, nghe rõ hơi ấm và nhịp thở của nàng:
“Anh không có nơi nào để trú ẩn.”
Thục ngả người vào ngực chàng, lơ đãng:
“Em muốn anh hiểu. Chẳng có gì dập tắt được tình yêu đối với anh. Cho dù ngày mai chúng ta không gặp nhau.
Chàng buồn rầu nói:
“Thục ạ, rồi chúng ta sẽ bị tướt đoạt mọi thứ ngay cả tình yêu. Anh không muốn em bị mất mát.”
Thục mỉm cười, quàng tay qua cổ chàng kéo xuống. Chàng hôn trên môi nàng, nụ hôn không bao giờ dứt. Bóng tối vây hãm xung quanh, và chàng cứ bơi mãi ngược dòng về một xứ sở chim muông. Thiên nhiên mộc mạc, mà chàng là kẻ đang gieo vào nguồn đất mầm cay đắng.
Nguồn: cadaomoi@
Lời Của Quá Khứ Lời Của Quá Khứ - Khế Iêm